ĐỒNG TÌNH LUYẾN ÁI
Homosexuality
NGƯỜI TA SẼ CÓ CẢM GIÁC THẾ NÀO KHI BỊ ĐỒNG TÌNH LUYẾN ÁI VÀ ĐANG PHẢI TRANH CHIẾN VỚI NÓ? Một sinh viên đã thuật lại điều này về những kinh nghiệm của mình:
“Tôi chẳng bao giờ nghĩ (hay quyết định) là mình có sức hấp dẫn đối với đàn ông hơn là hấp dẫn phụ nữ. Nếu như tôi đã có cơ hội lựa chọn, chắc chắn tôi không thể lựa chọn để trở nên loại người mà tất cả những đứa trẻ khác xem tôi như là một người bất bình thường. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn vô dụng khi những sự thúc giục tình dục của tôi hướng đến những đứa con trai chứ không phải là những cô con gái. Tôi đã có những sự tưởng tượng về đàn ông thường xuyên. Tôi có thể nhớ là mình đã thủ dâm lần đầu tiên khi tôi tám tuổi, nhưng những sự tưởng tượng của tôi lúc đó không phải là tình dục cách đặc biệt. Tôi nhớ lúc đó khi tôi ở tuổi dậy thì, cũng chính là lúc những sự tưởng tượng tình dục bắt đầu. Tôi đã thủ dâm hầu như mỗi ngày, thỉnh thoảng nhiều hơn một lần mỗi ngày. Mỗi lúc tôi nghĩ nhiều về những đứa con trai khác, hơn là những đứa con gái. Khi tôi cố gắng suy nghĩ về những đứa con gái trong lúc thủ dâm, tôi không thể nghĩ đến được.”
“Tôi tìm cách giải quyết sự phát hiện này (thủ dâm) một mình. Tôi chẳng bao giờ nói với bất kỳ ai về ‘chuyện tình dục’ của mình. Tôi đã quá e ngại sẽ bị mọi người khước từ. Tôi nhớ một kinh nghiệm bị từ chối khi tôi học lớp bảy, khi tất cả những đứa trẻ khác gọi tôi là ‘bó củi’, hay ‘điếu thuốc lá’, và ‘đồng tính luyến ái’. Tất nhiên, không một ai biết về tôi lúc đó thế nào; tôi không thể chịu đựng được suy nghĩ là chúng có thể sẽ phản ứng ra sao nếu như chúng thật sự biết về tôi, hoặc biết về điều mà tôi đang phải chịu. Trải qua trường trung học và hầu hết trường đại học, tôi đã giữ im lặng, và nỗi đau của tôi – chính tôi chịu.”
“Khi tôi lên đại học, tôi đã yêu một thằng con trai khác. Nhưng thằng con trai này không đồng tính luyến ái như tôi. Và tôi phải chịu giữ sự bí mật của tôi với anh ấy. Chúng tôi là những người bạn cùng phòng trong ba năm, và anh ấy chẳng bao giờ biết về tôi cho tới chỉ trước khi chúng tôi tốt nghiệp. Điều khó cho tôi trong tình huống này xảy ra với sự đau đớn kinh khủng đó là anh ấy không thể yêu tôi, một sự thật phũ phàng đối với tôi, đồng thời cũng là sự nhận ra của anh ấy, anh ấy xem tôi như là một gã đồng tình luyến ái và đang lèo lái chuyện tình dục nhiều hơn. Tôi đã cảm thấy như mình đang lầm đường lạc lối trong những hố sâu mà tôi đang ở trong đó.”
“Tôi đã là một Cơ Đốc Nhân từ khi tôi bảy tuổi và tôi đã nhiều lần cầu xin Đức Chúa Trời cất căn ‘bệnh’ đồng tình luyến ái trong tôi đi. Ngài chẳng bao giờ nhậm lời cầu xin của tôi, Ngài đã không cất tính đồng tính luyến ái của tôi đi. Nhưng nó lại trở nên mạnh mẽ hơn, phát triển hơn mỗi ngày. Thật là khó để cam chịu sự thật này – Kinh Thánh nói rằng đồng tính luyến ái là sai – sai vì sự hấp dẫn mạnh mẽ về tình dục và cảm xúc của tôi đối với đàn ông. Đó là lúc tôi bắt đầu thử nghiệm một ít với gã đồng tính luyến ái khác trong thành phố. Tôi đi đến các tiệm sách cho giới đồng tính luyến ái và tôi có những cú điện thoại nóng với mấy gã đồng tính luyến ái khác. Có quá nhiều triển vọng hay hứa hẹn của sự mãn nguyện và sự trọn vẹn tình dục tại những nơi này. Tôi bắt đầu chuyển sang một cuộc sống có hai người. Tôi đã từng đem những gì mà tôi học được trong Kinh Thánh nói cho các bạn trong trường, và tôi liên quan nhiều tới việc truyền giáo tại trường; nhưng mỗi lần tôi làm việc, tôi lại đi đến tiệm sách dành cho những người đồng tính ở dưới phố. Tôi luôn luôn cảm thấy có lỗi và ghe tởm khi tôi đến đó, nhưng tôi không thể dừng lại được, tôi lại tiếp tục đến đó nữa. Triển vọng của sự trọn vẹn tình dục là quá mạnh mẽ đối với tôi!”
“Cuối cùng, tôi đã kể với một người về những sự tranh chiến trong tôi. Cô ấy đã rất hiểu và đã không khước từ tôi. Sau một thời gian, ngay cả tôi có thể kể cho người bạn cùng phòng của tôi biết. Điều này đã không làm tôi dừng lại, tôi vẫn tiếp tục đi đến các tiệm sách ấy; nhưng dù gì thì đây cũng là bước đầu tiên trong tiến trình chữa lành cho tôi. Tôi không thể giải quyết điều này một mình được.”
“Từ lúc đó, Đức Chúa Trời đã đặt trong cuộc đời tôi vài người tuyệt vời, họ là những người đã giúp đỡ tôi, khích lệ tôi đừng sa ngã vào sự cám dỗ đó nữa. Một vài người trong những người bạn này của tôi cũng đã từng tranh chiến với sự cám dỗ đồng tính luyến ái, nhưng chúng tôi tin cậy nơi sự chiến thắng của Đấng Christ trên tội lỗi, sẽ đem lại năng quyền trên tội đồng tính luyến ái. Nan đề của tôi đã lấy đi vài người có lòng thương xót và quan tâm chăm sóc đến tôi, khi họ nghe về những sự tranh chiến trong tôi, và điều đó giúp tôi hiểu về họ. Tôi không biết đến khi nào hoặc nếu như sự cám dỗ từng ràng buộc tôi trong những hành động đồng tính luyến ái sẽ mất đi, nhưng tôi không còn chịu gánh nặng về niềm tin cho là tôi đã mất hết hy vọng và không có năng quyền trên những sự cám dỗ này nữa. Sự nhận biết của tôi là ở nơi Đấng Christ, không phải ở trong những sự cám dỗ của tôi.”
Cách đây vài thập niên, vấn đề đồng tính luyến ái hiếm khi được đề cập đến trong xã hội (đặc biệt là trong giới học thức). Mọi người xem nó như là thứ gì đó tội lỗi, bệnh hoạn, hoặc không hợp pháp; hầu hết những người có tình dục với người khác giới đều lờ đi (kể cả các thành viên trong Nhà thờ); được những nhà tâm thần học nghiên cứu, họ là những người xem vấn đề đó như là trường hợp sai trệch về tình dục; và vấn đề này được che đậy có lẽ bởi hàng triệu người, họ muốn giữ những xu thế đồng tính luyến ái của họ khỏi trở nên phổ biến.
Sau đó, mọi thứ đã bắt đầu thay đổi. Cách đây 40 năm, nhà nghiên cứu Alfred Kinsey đã ước tính có 4% dân số người Mỹ là đồng tính luyến ái và có 37% dân số người nam tham dự ít nhất một lần hành động đồng tính luyến ái. Vào năm 1954, một cuộc nghiên cứu được sự tài trợ từ Chính phủ đã đưa ra báo cáo về vấn đề đồng tính luyến ái đã làm choáng váng nhiều người ở Anh; và trước đó nhiều năm, đồng tính luyến ái đã trở thành một chủ đề quan tâm của Chính phủ và là nguồn dữ liệu cho sự tranh cãi. Hàng vô số những người đồng tính, trước kia họ đã im lặng về thiên hướng tình dục của họ; nay thiên hướng ấy xuất hiện “gần nhất” để tuyên bố rõ về việc đồng tính luyến ái của họ; để hình thành các tổ chức của những người đồng tính; và đòi hỏi Chính phủ và truyền thống văn hóa ngưng “đàn áp” thông tin về họ. Hiệp Hội Bệnh Tâm thần Hoa Kỳ đã biểu quyết thông qua việc loại bỏ vấn đề đồng tính luyến ái khỏi danh sách những sự rối loạn trong tâm trí, và kết luận rằng đồng tính luyến ái là một sự mất trật tự chỉ khi nào nó làm phiền đến người khác một cách có chủ ý.
Với sự bùng nổ của bệnh dịch AIDS, đồng tính luyến ái là đột ngột đẩy vấn đề vào một sự nhận thức chung lớn hơn. Sự tranh luận công khai về vấn đề đồng tính luyến ái chẳng bao lâu đã xâm phạm vào mọi thành phần trong xã hội: về quân sự, những sự tuyển chọn địa phương (những sự tuyển chọn nhỏ), trong Chính phủ, các tòa án, trường học, thể thao, khoa học, các đoàn thể chuyên gia, thế giới giải trí, kinh doanh, công nghiệp, nguồn thông tin, và dĩ nhiên, cả trong Nhà thờ. Vấn đề càng trở nên nóng bỏng khi tranh luận về việc “lễ thụ chức” cho những người đồng tính tiếp tục mang chức sắc trong vài nhóm tôn giáo. Một loại các Nhà thờ dành cho những kẻ đồng tính luyến ái đã được xây dựng, và một tổ chức phát triển ảnh hưởng của những kẻ đồng tính theo đạo Cơ Đốc (Phái Phúc-âm, tin nơi Chúa Cứu-thế như đạo Tin Lành hay Báp-tít…) cũng được thành lập.2 Trong những năm gần đây, đã có một chiều hướng gia tăng các bài báo và nhiều cuốn sách về đồng tính luyến ái được viết bởi những tác giả Cơ Đốc và không-Cơ Đốc.3
Một vài Cơ Đốc Nhân vẫn cố gắng làm ngơ trước vấn đề đồng tính luyến ái. Một số người có những lời bình luận khai báo sai và thiếu tế nhị về những người đồng tính, những người khác thì đả kích, định tội và giận dữ về những người đồng tính; trong khi vẫn có những người có vẻ như có hướng làm cho họ trở nên “những kẻ đồng tính luyến ái Cơ Đốc” hợp pháp, phương cách cuộc sống mà Đức Chúa Trời-chấp thuận. Nhiều người tin Chúa, có lẽ là hầu hết, không chắc chắn về điều họ suy nghĩ.
Sự chắc chắn này thật dễ hiểu. Đồng tính luyến ái không dễ định nghĩa, và các nguyên nhân của nó vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Có nhiều giả thuyết không được xác nhận nhưng cũng có nhiều giả thuyết được bàn cãi rộng rãi về những đặc tính của những người đồng tính luyến ái, và có vẻ như thật khó khăn để có được sự thay đổi, ngay cả với sự tư vấn. Các tác giả của một bài tâm lý gần đây đã viết: “Thắc mắc ở đây là sau nhiều năm nghiên cứu, chúng ta gần như vẫn duy trì thái độ tránh né trước câu hỏi tại sao một số người trở nên là những người có quan hệ tình dục với người khác giới (trường hợp bình thường), còn những người khác thì đồng tính (bất bình thường). Ngày nay chúng ta có thể coi nhẹ một vài học thuyết phổ biến lúc trước, . . . nhưng chúng ta không có phương cách đáng tin cậy nào để dự đoán trước – chắc chắn không phải từ sự hiểu biết về các mối quan hệ của bạn với cha mẹ bạn, những kinh nghiệm tình dục thời niên thiếu của bạn, v.v… và v.v… – liệu căn bản bạn có hấp dẫn được các thành viên cho việc quan hệ tình dục cá nhân của bạn hoặc quan hệ tình dục khác hay không. Nhưng trong vấn đề này, nói chung nhiều nhà nghiên cứu đều đồng ý: thiên hướng tình dục của một người có vẻ như không được lựa chọn một cách có chủ tâm, cũng như thật không dễ dàng để thay đổi.”4 Tất cả những điều này đều phức tạp, tạo ra nỗi sợ hãi trải rộng trong xã hội và nhất là trong Nhà thờ. Nhiều người có vẻ như e ngại về sức ảnh hưởng của những kẻ đồng tính và khả năng mà những thiên hướng đồng tính luyến ái có thể được phát hiện trong con người của chính mình. Ngay cả nỗi sợ hãi này cũng có một cái tên: “nỗi ám ảnh đồng tính”, nỗi sợ hãi của những kẻ đồng tính hoặc sự đồng tính luyến ái.
Bởi vì xung quanh chủ đề gây hoang mang và tạo ra sự tranh luận này, gần như chắc chắn rằng một vài nhà lãnh đạo sẽ không đồng ý với những đoạn sau. Tuy nhiên, vui lòng nhớ rằng – chương này không phải viết để ủng hộ bất kỳ học thuyết nào hoặc để kích thích một sự tranh luận (mạnh mẽ) nào. Tôi đã cố gắng thay vì tóm tắt những điều về đồng tính luyến ái, tôi đã đưa ra cách cô đọng về các chủ đề của cuộc tranh luận công khai, và cắt giảm lối nói hoa mỹ thuộc cảm xúc; vì thế, chúng ta có thể hiểu và giúp đỡ những người đồng tính có hướng tìm đến sự tư vấn của chúng ta.
Hầu hết chúng ta có lẽ sẽ đồng ý với Richard J. Foster là người đã viết:
Bởi vì chủ đề này đã gây đau thương cho quá nhiều người, từ đầu tiên cần được nói ra là từ – lòng trắc ẩn và sự chữa lành. Những người này rõ ràng là họ đồng tính trong thiên hướng của họ, họ thường cảm thấy bị hiểu nhầm, rập khuôn, bị lạm dụng, và bị khước từ. Những người này tin rằng sự đồng tính luyến ái là một sự lăng mạ rõ ràng đối với các tiêu chuẩn của Thánh Kinh, họ cảm thấy bị phản bội bởi các giáo đoàn muốn lập pháp (hợp pháp) hóa sự đồng tính luyến ái trong cuộc sống tôn giáo (trong Nhà thờ).
Có một nhóm thứ ba bị tổn thương rất nhiều bởi những xung đột tạm thời về sự đồng tính: Tôi ám chỉ đến những người chịu nỗi lo âu ghê gớm khi nhận biết xu hướng tình dục cá nhân của họ, những người này cảm thấy bị xé toạt bởi những sự thúc giục tình dục mâu thuẫn đang nung đốt họ, và họ cân nhắc xem sẽ thế nào nếu như họ ngấm ngầm che giấu sự đồng tính luyến ái của mình. Có lẽ đây là nhóm phải chịu đựng nhiều nhất. Họ như bị quăng vào một bờ biển của sự mơ hồ, bởi vì Nhà thờ đã đem lại cho họ một tiếng nói không chắn chắn. Một mặt, họ nghe những lời cáo trách mạnh mẽ về sự đồng tính luyến ái, và, mặc dù họ cảm kích trước sự quan tâm cách trung thực của Thánh Kinh, nhưng họ đã vấp phạm bởi những giọng nói trơ tráo, thiếu cảm thông, hoặc tính phô trương của những lời công bố. Mặt khác, họ nghe được sự chấp nhận nhiệt tình về sự đồng tính luyến ái, và, mặc dù họ cảm kích về lòng quan tâm trắc ẩn đối với những người chịu nhiều sức ép, nhưng họ vẫn kinh ngạc về phương cách mà Kinh Thánh rèn luyện để làm thích hợp một dáng điệu có tính bao dung hơn.
Tất cả họ đều bị ném vào vòng xoáy lộn xộn của văn hóa và quan điểm Cơ Đốc về vấn đề đồng tính luyến ái, họ cần đến lòng trắc ẩn và sự cảm thông của chúng ta.5
Được định nghĩa cách rộng rãi, đồng tính luyến ái là một sự hấp dẫn gợi tình đối với những người có quan hệ tình dục riêng tư.6 Mặc dù đồng tính luyến ái gồm có những suy nghĩ, cảm giác, những sự tưởng tượng về tình dục, những hành động không che đậy về tình dục với những người đồng-tính; thuật ngữ này thường không được áp dụng cho những người ở thời kỳ tiền thanh niên, cho những người (thường là những người trẻ tuổi) mà sự tò mò của họ hướng họ đến sự liên quan gợi tình được thử nghiệm ngắn với một người đồng tính, hoặc cho những người trong ngục tù, hoặc những môi trường đồng-tính cô đơn khác, tạm thời họ cam kết trong cách cư xử đồng tính, bởi vì những người khác-tính không sẵn sàng cho họ.
Thật là quan trọng để phân biệt giữa cách cư xử đồng tính (ít nhất là cam kết định kỳ vào những hành động kích thích tình dục với một người đồng tính khác) và thiên hướng đồng tính (cảm giác hấp dẫn tình dục hướng tới những người đồng tính). Nhiều người với một thiên hướng đồng tính chẳng bao giờ để người khác biết về sự thích thú đồng-tính này của mình, và chẳng bao giờ cam kết trong cách cư xử đồng tính với một người khác. Thỉnh thoảng những người cố vấn cũng ám chỉ đến những người đồng tính luyến ái ngấm ngầm. Những người này bị thức tỉnh tình dục bởi những người đồng-tính, nhưng những người đồng tính ngấm ngầm không thể chấp nhận chính mình có thiên hướng căn bản là đồng tính luyến ái. Không có thành phần có cá tính đồng tính (hoặc nhiều loại), và cũng không có những kiểu cách đồng tính điển hình. Những người đồng tính luyến ái có ở cả hai giới (những người đồng tính luyến ái nữ thường được gọi là những người đàn bà đồng dục nữ; không có thuật ngữ có thể so sánh với những người đàn ông). Những người đồng tính có ở mọi lứa tuổi, xuất hiện ở tất cả mọi thành phần bất kể thứ bậc chức vụ trong công việc và lãnh vực kinh tế-xã hội, sở hữu nhiều sự quan tâm khác nhau trong Nhà thờ cũng như bên ngoài (Nhà thờ), và không phải lúc nào họ cũng suy nghĩ về tình dục như những người có tình dục với người khác giới luôn suy nghĩ về tình dục. Trong khi một vài người đồng tính thích lượn lờ trong và ngoài các quán bar dành cho những người đồng tính tìm kiếm những người bạn tình (mặc dầu nỗi sợ hãi về bệnh dịch AIDS ngày càng gia tăng), thì cũng có nhiều người được tôn trọng hơn và thường cưới được các thành viên trong cộng đồng của họ. Một số người cởi mở về những thiên hướng hoặc sở thích tình dục của họ; những người khác vẫn giữ kín sự đồng tính luyến ái của họ. Trong khi nhiều người cảm thấy cô đơn và không chắc chắn, thì cũng không thể ví những người đồng tính luyến ái như là một nhóm bị “rối loạn trí não”, vô dụng trong xã hội, hoặc thậm chí cho rằng họ cô đơn hơn những người có tình dục với người khác giới. Sự thật, ngay cả chúng ta cũng không thể giả sử rằng con người có thể được chia ra thành hai nhóm: người đồng tính luyến ái và người không-đồng tính (người có tình dục với người khác giới). Trong báo cáo của mình, Kinsey đề nghị – một cán cân với bảy điểm, trong đó điểm ze-rô chỉ về một người có tình dục với người khác giới quá mức, số ba là điểm giữa, và sáu điểm còn lại chỉ về một người với những thiên hướng và những hành động đồng tính quá mức. Các nhà nghiên cứu với Kinsey đã kết luận rằng, một số người nằm ở điểm ze-rô, và những vị trí ở điểm-sáu trên cán cân.
Để giúp đỡ những người đồng tính luyến ái, trước hết chúng ta phải từ bỏ chính mình đối với những quan niệm rập khuôn gây tổn hại và những suy nghĩ sai lầm, quá thường bị áp đặt vào một nhóm những người thường trải qua khi không có sự lựa chọn cho chính mình, nhưng nhận thấy chính mình hấp dẫn những người khác đồng tính.
KINH THÁNH VÀ VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Như đã nói ở trên, Kinh Thánh nói rất ít về vấn đề đồng tính luyến ái. Nó được đề cập chỉ trong khoảng bảy đoạn, và trong mỗi trường hợp, sự ám chỉ liên quan tới hết sức ngắn gọn.7 Rõ ràng vấn đề đồng tính luyến ái chẳng bao giờ được chấp thuận, nhưng cũng không bị bỏ qua với các tội lỗi khác tồi tệ hơn nó.
Trong một nổ lực để phân loại những sự dạy dỗ trong Kinh Thánh về đồng tính luyến ái, một số học giả Cơ Đốc đã viết ra những cuốn sách và những bài báo; thỉnh thoảng đưa ra những kết luận gây tranh cãi.8 Đôi khi có vẻ như nhiều học giả bắt đầu với một ý kiến về đồng tính luyến ái và sau đó diễn giải Thánh Kinh theo một cách chủ quan nhằm ủng hộ cho ý kiến của họ. Chẳng hạn như, một số người đã sử dụng Kinh Thánh để ủng hộ cho quan điểm: sự định tội có ảnh hưởng sâu rộng đối với những người đồng tính,9 trong khi những người khác thì tìm cách giải thích tách rời khỏi những sự ám chỉ tội lỗi của sự đồng tính luyến ái, và kết luận rằng đây là một điều kiện đến từ Đức Chúa Trời.10
Trong Cựu Ước, cách cư xử đồng tính luyến ái bị lên án hay định tội, nhưng một số người tranh cãi rằng sự dạy dỗ này là một phần trong luật pháp đã được đặt sang một bên khi Đấng Christ đã đến thế gian, chịu chết thay cho tội lỗi của chúng ta. Tuy nhiên, trong khi Tân Ước, có ba sự ám chỉ về sự đồng tính luyến ái, và hai trong số ba trường hợp đó đã dùng từ Hy-Lạp, có nghĩa là “sự giao hợp với những người nam khác.”11 Cách cư xử đồng tính luyến ái cũng bị định tội trong những phân đoạn Kinh Thánh này, cùng với việc thờ hình tượng, ăn trộm, nói dối, giết người, và các tội khác.
Ro 1:26-27 diễn dạt rõ ràng và đầy đủ hơn về những sự dạy dỗ của Thánh Kinh về vấn đề đồng tính luyến ái. Một số người duy trì quan điểm cho rằng phân đoạn Kinh Thánh này chỉ định tội những người trước đây có tình dục với người khác giới, họ là những người có hướng chuyển thành những người đồng tính; nhưng sự diễn giải này có hai giả định gây tranh cãi nhiều: (a) họ là những người hấp dẫn hay quyến rũ những người đồng tính bằng sự lựa chọn có chủ ý, và (b) những câu Kinh Thánh không áp dụng đối với những người đồng tính luyến ái suốt đời. Những người khác thì cho rằng, sự quan tâm của người viết sách Rô-ma đoạn 1 không phải về sự đồng tính luyến ái, nhưng về sự thờ hình tượng. Rõ ràng là phân đoạn này định tội những người thờ điều gì đó ngoài Đức Chúa Trời, nhưng Phao-lô không cố gắng để nói ở đây – chỉ sự đồng tính luyến ái giống như sự thờ hình tượng là sai. Thay vì ông nói, khi người ta không quan tâm đến Đức Chúa Trời, ông đặt họ vào trong tất cả mọi loại tình huống tội lỗi, bao gồm đồng tính luyến ái công khai.
Bất kỳ khi nào đồng tính luyến ái được đề cập đến trong Kinh Thánh đều đề cập đến một cách tiêu cực. Vì vậy, điều này có vẻ như rất rõ ràng, những hành động khiêu dâm đồng tính là sai. Nếu như đồng tính luyến ái công khai là tội lỗi, thì những suy nghĩ và cảm giác về đồng tính luyến ái là gì? Điều gì có thể được nói về những người này – là những người có những tưởng tượng và xung lực tình dục căn bản thuộc đồng tính, nhưng chúng bị che giấu rất kỹ lưỡng chăng? Điều gì có thể được kết luận về những người – bao gồm các Cơ Đốc Nhân – sống cuộc sống bình thường, là những người có những cuộc hôn nhân vui thỏa với người khác giới; nhưng họ cũng là những người bị làm phiền bởi những thiên hướng đồng tính đang tái diễn làm đe dọa tính chất nam tính hoặc nữ tính của họ, và một lúc nào đó có thể họ cũng sẽ trượt vào và trở nên rõ ràng đối với những người khác?
Để có những thiên hướng, những suy nghĩ, và những khát khao đồng tính luyến ái, không có một chỗ nào trong Kinh Thánh định tội về điều đó; nhưng khi một người sống trong những suy nghĩ như thế và tiếp tục cam kết trong sự tưởng tượng tình dục – đồng-tính hoặc khác-tính – khi đó, những suy nghĩ như thế sẽ trở nên những thèm khát nhục dục, và nhục dục rõ ràng là tội lỗi. Cơ Đốc Nhân có thể sa vào sự cám dỗ; ngay cả Chúa Jêsus (thầy tế-lễ) cũng bị thử-thách trong mọi việc (giống như chúng ta), song Ngài chẳng phạm tội;12 dù vậy Kinh Thánh đã đưa ra một phân đoạn về sự hy vọng. Kinh Thánh khẳng định, chúng ta có thể né tránh việc sống trong những suy nghĩ nhục dục hoặc có thể sa vào những sự cám dỗ tội lỗi dưới mọi hình thức, bao gồm những cám dỗ về sự đồng tính luyến ái.13
CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Mặc dù có thể đã có hàng ngàn cuộc nghiên cứu khoa học, dường như tất cả đều có một kết luận có vẻ như rất rõ ràng: Chắc chắn không có một nguyên nhân duy nhất nào được xác định về đồng tính luyến ái. Một số nhà nghiên cứu nổi tiếng đã điều tra: liệu thiên hướng tình dục và cách cư xử đồng tính luyến ái có phải là kết quả trực tiếp của sự di truyền, hay là do từ những ảnh hưởng sinh học khác. Một vài người đã kết luận rằng “bằng chứng khoa học ủng hộ quan điểm – những biến số của chất hoocmôn và thần kinh học đang điều khiển trong suốt thời gian mang thai, là những yếu tố quyết định quan trọng của thiên hướng tình dục.” 14 Tuy nhiên, những người khác lại kết luận, “các chất hóc-môn trước khi sinh không quyết định cách chắc chắn thiên hướng tình dục.”15 Ngay cả các nhà nghiên cứu về y khoa và sinh học cũng có cùng một kết luận, “xã hội hóa sơ sinh” dường như có ảnh hưởng đến chiều hướng tình dục nhiều hơn.16 Được nói đến bằng các thuật ngữ ít kỹ thuật hơn, nhưng không có bằng chứng cụ thể nào ủng hộ quan điểm cho rằng đồng tính luyến ái chỉ có một nguyên nhân vật lý hoặc sinh học.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng đồng tính luyến ái “chẳng còn được lựa chọn nữa bèn như là một ngôn ngữ bẩm sinh.” Theo như các điều tra, thiên hướng tình dục nên được xem xét dưới ba thuật ngữ: bản chất (tự nhiên), giai đoạn chỉ trích, và dưỡng dục. Sự quan tâm đến bản chất của một người, có thể là do một vài ảnh hưởng của chất hóc-môn bẩm sinh mà chúng có sức chịu đựng thiên hướng tình dục sau đó. Tại những giai đoạn chỉ trích trong cuộc sống, đặc biệt là trong thời đầu của tuổi thiếu nhi, những kinh nghiệm sẽ ảnh hưởng đến những xu hướng tình dục của người ấy sau này. Lúc đó, thiên hướng và cách cư xử tình dục sẽ bị ảnh hưởng bởi bản chất, do tác động xảy ra từ môi trường xã hội và tại gia đình của người ấy. Nếu nói về điều gì đó bằng ngôn ngữ chuyên môn, thì việc quan hệ tình dục với người khác giới, đồng tính luyến ái, và “người ái nam ái nữ, tất cả đều có những nguyên nhân trước và sau khi sinh, những nguyên nhân này tương tác trong suốt các giai đoạn chỉ trích của sự phát triển để tạo ra tình trạng kéo dài hoặc thậm chí khiêu dâm tình dục (sexuoerotic) bất di bất dịch.”17
Lúc này, chúng ta bị bỏ lại với kết luận, đồng tính luyến ái có thể xuất hiện bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Nguồn dữ liệu không đi đến kết luận cụ thể nào, nói rằng những ảnh hưởng sinh học và việc mổ trước khi sinh có thể đóng vai trò nào đó trong sự phát triển thiên hướng tình dục sau này; nhưng ngay cả điều đó cũng có bằng chứng lớn hơn cho thấy những chiều hướng và những cách cư xử đồng tính luyến ái được quyết định bởi sự phát triển tâm lý và việc học hỏi từ xã hội. Một vài học thuyết miêu tả đồng tính luyến ái được hình thành như thế nào:
1. Các mối quan hệ cha mẹ con cái. Các học thuyết thuộc lãnh vực phân tâm học đã được chấp nhận cách rộng rãi và được nghiên cứu một cách mạnh mẽ.18 Đặt nền tảng trên quan điểm của Freud, đồng tính luyến ái được sản sinh bởi sự phát triển tình dục bị ngăn chặn, các học giả về phân tâm học kết luận rằng: những người đàn ông đồng tính thường hình thành từ trong gia đình của họ; thường những người này có một người cha yếu đuối, thụ động, thiếu hiệu quả và một người mẹ độc đoán. Người mẹ này “khôn khéo” dạy dỗ đứa con trai của bà trở nên thụ động và chuyên dụng đối với bà. Đứa con trai này không có kiểu mẫu (tấm gương, dẫn chứng) về đàn ông có tính cách mạnh mẽ để noi theo, và chẳng bao lâu nó phát hiện ra nó có ít khả năng hay tài cáng gì hơn những đứa bạn đồng trang lứa với nó khi quan hệ với những đứa con gái. Và kết quả là, đứa con trai này mất đi sự tự tin về tính chất nam tính của mình và kinh sợ với suy nghĩ về sự thân mật với con gái. Ngược lại, những đứa con gái trong những gia đình như thế thường tiếp thu từ những ông bố của chúng về sự không thân thiện và khước từ, vì thế những đứa con gái ít có cơ hội quan hệ với con trai. Chúng quan hệ với con gái tốt hơn.
Một sự kích động suy nghĩ và có lẽ là một sự thay đổi đáng tin tưởng hơn về quan điểm này đã được giới thiệu bởi một học giả Cơ Đốc, là Elizabeth R. Moberly. Nghiên cứu của cô nói rằng: đồng tính luyến ái xuất hiện không phải từ các vấn đề trong mối quan hệ với cha hay mẹ khác-giới, nhưng bởi vì một khuyết điểm trong quan hệ với cha hay mẹ đồng-giới. Moberly viết, trong sự phát triển bình thường, cần “tình yêu, sự phụ thuộc, và sự nhận biết, cha hay mẹ đồng giới cũng như vậy, sự tiếp xúc của đứa trẻ với người cha hay người mẹ (đều phải xảy ra).” Nếu như quan hệ này thiếu đi hoặc bị ngăn chặn, cá thể sẽ vô thức cố gắng phục hồi sự tiếp xúc ấy. Cá thể này là người trở nên đồng tính luyến ái – có một nhu cầu làm mới đối với “sự thiếu hụt trước kia trong mối quan hệ cha mẹ-con cái. Nhu cầu tồn đọng đối với tình yêu thương từ những người trực hệ đồng giới, và có tương quan với nhau, nhu cầu chưa có trước đây đối với tình yêu thương từ người cha hay người mẹ đồng giới.”19 Một phương cách để sữa chữa lại sự thiếu hụt này, để hoàn tất những nhu cầu chưa đạt được trước kia, và để đối xử thành công với những người đồng tính luyến ái, là xây dựng một “mối quan hệ không-tình dục tốt đẹp với một thành viên đồng giới.”20 Cũng theo quan điểm này, những người đồng tính luyến ái sẽ được giúp đỡ tốt nhất bởi những người cố vấn đồng giới, biết chăm sóc, và là những người có tình dục với người khác giới.
Trong khi nhiều người đồng tính luyến ái kinh nghiệm được những sự phá vỡ từ các mối quan hệ cha mẹ-con cái, những người khác thì không. Trẻ em trong cùng một gia đình, không phải tất cả đều trở nên đồng tính, mặc dầu rất có thể họ đều có các mối quan hệ cha mẹ-con cái tương tự.21 Điều này khiến một vài người cố vấn tìm những cách giải thích khác về sự đồng tính luyến ái.
2. Các mối quan hệ khác trong gia đình. Đồng tính luyến ái có được kết quả khi:22
• Các bà mẹ không tin cậy, hoặc sợ hãi đàn bà và dạy dỗ điều này cho những đứa con trai của họ.
• Các bà mẹ không tin cậy, hoặc sợ hãi đàn ông và dạy điều này cho những đứa con gái của họ.
• Đứa con trai được bao quanh bởi quá nhiều người giới nữ (mẹ, chị-em gái, bà, cháu gái, cô, dì, thím, bác gái, bạn gái), nhưng cậu lại có giới hạn trong việc tiếp xúc với những người lớn giới nam; vì thế, cậu học suy nghĩ và hành động như một đứa con gái.
• Các bậc cha mẹ là những người mong muốn có được đứa con gái, nhưng thay vì thế họ lại có một đứa con trai, họ nuôi dưỡng nó một cách dịu dàng; vì thế, có thể nó suy nghĩ và hành động như một đứa con gái (một tình huống tương tự xảy ra khi cha mẹ muốn có một đứa con trai, nhưng họ lại có một đứa con gái); trong cả hai trường hợp, đứa trẻ đều có sự bối rối lớn về sự nhận biết và thiên hướng tình dục của nó.
• Đứa con trai bị khước từ hoặc bị làm ngơ bởi người cha của nó, và vì lý do này, nó cảm thấy mình không xứng đáng hay không thích hợp khi là một đứa con trai, và nó sẽ không chắc về việc làm thế nào để những đứa con trai có thể quan hệ với những đứa con gái.
• Đứa con gái bị người mẹ từ chối hoặc bị làm ngơ, và từ lúc đó, nó cảm thấy mình không thích hợp khi là một đứa con gái, nó không chắc làm thế nào mà những đứa con gái có thể quan hệ với những đứa con trai, và chính nó cũng không thể quan hệ tốt được với những đứa con trai.
• Cả bố mẹ đều e ngại về tình dục, không vui lòng thảo luận đề tài này tại nhà, hoặc họ mạnh mẽ trong sự định tội về tình dục của họ; trong mọi cách, đứa trẻ sẽ có một quan điểm phóng đại về tình dục, và như là một kết quả nghiên cứu, những sự tranh chiến của nó với sự điều chỉnh về vấn đề quan hệ tình dục với người khác giới.
• Người mẹ (hoặc người bố) quá nuông chìu đứa trẻ đến nỗi nó tiếp xúc không dè dặt với cha hay mẹ nó, nó không thể dứt khỏi họ, và nó bị thuyết phục rằng không có người nào khác có thể so sánh với người cha hay người mẹ khác-giới của nó.
Một danh sách như trên có thể còn tiếp tục, có lẽ trong vài trang nữa, nhưng đủ để nói và thể hiện cho thấy những căn nguyên của đồng tính luyến ái có thể là phức tạp và thường gắn sâu trong bối cảnh gia đình.
Trong bất cứ một xã hội nào, một đứa trẻ học tập những điều - có nghĩa là - để trở thành người nam hoặc người nữ. Nếu như không có cơ hội học tập những vai trò của người nam hoặc người nữ lành mạnh, hoặc nếu như xã hội (như xã hội của chúng ta) đã định nghĩa những vai trò này một cách mơ hồ; có thể vì thế mà cách cư xử và những thái độ của đứa trẻ trở nên bị phóng đại. Những đứa trẻ như thế khi lớn lên đến tuổi trưởng thành, chúng không biết điều mà chúng nên trông đợi là gì, hoặc chúng nên phản ứng thế nào đối với những người khác giới. Thỉnh thoảng, bạn cần thoải mái hơn để biết phải đối xử thế nào với những người đồng tính luyến ái, đặc biệt là nếu như người đó đã bắt đầu có cảm giác với người đồng-giới.
3. Những kinh nghiệm ban đầu. Điều gì xảy ra cho một cậu con trai khi các bộ phận sinh dục của nó bị kích thích bởi một người đàn ông? Có thể là không chính xác và đơn giản để kết luận rằng, đồng tính luyến ái chỉ xảy ra bởi vì những kinh nghiệm tình dục ban đầu. Cũng vì vậy, những kinh nghiệm này có thể có một sự ảnh hưởng rất lớn đến thiên hướng tình dục ở người lớn.
Chẳng hạn như, một báo cáo đã nói rằng, đồng tính luyến ái có thể được hình thành trong ba giai đoạn. Giai đoạn một, giai đoạn tự kỷ trung tâm, xuất hiện khi một đứa trẻ hoặc một thanh niên trẻ tuổi gặp trở ngại khi quan hệ với những đứa bạn đồng trang lứa đồng-tính, nó cảm thấy không thích hợp và khác biệt (có lẽ bởi vì người thanh niên trẻ này thiếu kỹ năng thể lực hoặc những kỹ năng khác mà những người đồng trang lứa có), và/ hoặc có những kinh nghiệm thích thú hay sự thức tỉnh gợi tình với một người đồng giới. Thỉnh thoảng trẻ em cảm thấy quá không thích hợp hoặc không thoải mái với sự nhận biết tình dục của chúng, đến nỗi chúng muốn trở nên là các thành viên của “hội” những người khác giới. Hầu hết những đứa trẻ này trở nên đồng tính như những người lớn đồng tính.23
Giai đoạn hai, giai đoạn xã hội-trung tâm, người ta bắt đầu cảm giác một thiên hướng đồng-tính. Thường có những cố gắng do chính mình từ chối điều này và nổ lực che đậy nó khỏi những người khác. Nhiều người tranh chiến với giai đoạn này trong toàn bộ cuộc sống của họ.
Một vài người bước sang giai đoạn ba, giai đoạn ba là giai đoạn phổ biến, là giai đoạn nơi mà người ta chấp nhận sự đồng tính luyến ái của họ, chính mình họ chấp nhận và được những người khác chấp nhận, mặc cho những hậu quả có thế nào đi nữa.24
4. Sợ hãi.
Vì các nguyên nhân khác nhau, một số người e ngại việc quan hệ tình dục khác giới. Những nỗi sợ hãi như vậy kéo dài có thể bắt nguồn từ việc thiếu sự tiếp xúc thường xuyên với những người khác giới, sự khước từ bởi những người khác giới này, hoặc từ những kinh nghiệm bị tổn thương và bối rối với một người nào đó khác giới. Một số người nói rằng các nhóm tôn giáo hoặc các trường học dành riêng cho những người đồng-giới, làm tăng sự đồng tính luyến ái một cách tình cờ. Khi sự tiếp xúc với những người có tình dục khác giới bị ngăn chặn, thì sự đồng tính luyến ái trở nên một sự thay thế ít đe dọa hơn.
Đối với một số người, nỗi sợ hãi về vấn đề quan hệ tình dục với người khác giới đi kèm với nỗi sợ hãi hoặc sự tụt hậu xung quanh những người đồng giới. Nếu như một người hấp dẫn những người đồng-giới, có thể có các nỗi sợ hãi bị khước từ, hoặc không chắc chắn về việc phản ứng cách bình thường ra sao, hay vì sợ rằng những sự không đảm bảo, những sự thúc giục đồng tính luyến ái của người đó bị khám phá.25
5. Sự lựa chọn có chủ tâm về đồng tính luyến ái.
Một số cuốn sách phổ biến cho rằng, những kết quả đồng tính luyến ái là một sự lựa chọn đã được cân nhắc kỹ, nhưng các giáo sư kinh nghiệm và hầu hết những người có một thiên hướng đồng tính luyến ái đều không tán thành quan điểm này. Sự hấp dẫn tình dục đối với các thành viên của những người có cùng giới tính là rất hiếm, nếu như nó từng xảy ra như là một sự quyết định có chủ tâm và có ý thức. Thỉnh thoảng trong cuộc sống của họ, hầu hết những người đồng tính luyến ái bắt đầu nhận ra rằng, điều đó không bởi sự lựa chọn được cân nhắc kỹ của riêng họ, nhưng một cách cơ bản là họ bị hấp dẫn bởi những người đồng giới. Một sự nhận biết như thế có thể là quá rắc rối đến nỗi nhiều người cố gắng che giấu nó, thậm chí họ che giấu cả chính mình. Những người này thường kết luận rằng mình đã được sinh ra như là một người đồng tính luyến ái, điều này đã được quyết định trước về di truyền; mặc dầu thế, như chúng ta biết, kết luận này không có bằng chứng hay kết quả nghiên cứu nào xác nhận.
Những xu hướng đồng tính luyến ái có được thường hình thành trước khi một người nhận ra điều đang xảy ra. Phần lớn chỉ như là một người có tình dục với người khác giới, người này bị hấp dẫn bởi những người khác giới; vì thế, một người bị đồng tính luyến ái đã học được sự hấp dẫn từ những người đồng giới. Những sự hấp dẫn này là không sai. Theo như Kinh Thánh, điều sai ở đây là sự quyết định có chủ tâm để cam kết vào những hành động đồng tính luyến ái.
Bất cứ lúc nào, khi một người kinh nghiệm được sự vui thích từ các hoạt động tình dục với một người đồng giới hoặc khác giới, các hoạt động tình dục trở nên hấp dẫn hơn trong lần khác. Cách cư xử ban đầu bắt đầu thế nào, không có vấn đề gì cả; đó như là kết quả của sự dụ dỗ từ một người khác, như là một sự thể hiện sự tò mò, hoặc như là một nổ lực để làm giảm sự căng thẳng trong khi người đó ở trong quân đội hoặc ở trong tù.26
Điều quan trọng hơn là liệu các hoạt động tình dục như vậy có tiếp tục hay không. Theo như một học giả trước đây đã nói, “những người đồng tính luyến ái kéo dài có hướng được thành lập bởi những thực tế đồng tính luyến ái đang tái diễn; bắt đầu ngay trước thời thanh niên và tiếp tục sau đó, đặc biệt là nếu như người đồng tính luyến ái – liệu đó chỉ là tạm thời, hoặc một người lớn được người trẻ tuổi khâm phục.”27 Đối với nhiều người trẻ tuổi, sự đối đầu tình dục trôi qua, ngay cả với một người đồng-tính, đặc biệt là không thỏa mãn và dường như không được lặp lại. Vì những nền tảng và những xu thế của những người này khiến họ có thể bị tổn thương, một kinh nghiệm về tình dục có thể hướng tới một người khác, và một vòng lẩn quẩn lại bắt đầu. Những hành động đồng tính luyến ái (gồm có sự thủ dâm với những sự tưởng tượng về sự đồng tính luyến ái) làm gia tăng những xu hướng đồng tính luyến ái, lần lượt hướng tới những hành động đồng tính hơn. Dĩ nhiên, một chu kỳ tương tự có thể bắt đầu khi những người có những thiên hướng với những người có tình dục khác giới lựa chọn cam kết vào các hoạt động tình dục với những người khác giới. Theo Kinh Thánh, chu kỳ này của những người có tình dục với người khác giới là không sai trong hôn nhân; nhưng ngoài hôn nhân, sự liên quan vật lý như thế là tội lỗi.
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Những người trong phong trào đòi những quyền lợi cho những người đồng tính luyến ái (Gay Rights) nhấn mạnh về những lợi ích của sự đồng tính luyến ái, và mặc dù sự chung chạ bừa bãi phổ biến rộng rãi trong cộng đồng của những người tình dục đồng giới; nhiều cặp đồng-tính có thể sống với nhau trong một giai đoạn kéo dài của thời gian.28 Điều này cho thấy, không nên che giấu sự thật không mấy vui vẻ, là có hàng triệu người có những thiên hướng đồng tính luyến ái.29 Xu hướng đồng tính luyến ái của họ có xu thế làm mờ đục mọi lãnh vực trong cuộc sống của họ. Dĩ nhiên, nhiều người bị ảnh hưởng trong nhiều cách thống nhất khác nhau, nhưng đồng tính luyến ái thường ảnh hưởng tới bốn lãnh vực cách đặc biệt: lối sống, tự-quan niệm, các mối quan hệ cá nhân và gia đình.
1. Những ảnh hưởng về lối sống. Những báo cáo từ các nguồn thông tin thỉnh thoảng đem lại một bức tranh làm các cộng đồng của những người tình dục đồng giới và những lối sống đồng tính luyến ái khó chịu. Chẳng hạn như, một báo cáo miêu tả những cộng đồng đồng tính luyến ái là nơi có những cửa hàng phục vụ những người tình dục đồng giới, là nơi những con đường “bị chi phối bởi nhiều cặp đàn ông nắm tay, choàng vai, ôm eo nhau bước đi”, là nơi không có bóng dáng phụ nữ và trẻ em mà đáng ra họ phải có mặt, và là nơi các loại quần áo phản ánh cách ăn mặc được những người tình dục đồng giới yêu chuộng gần đây.30 Các bài báo thỉnh thoảng miêu tả việc các thầy cô giáo trong trường, hoặc những người lãnh đạo thanh niên, là những người chuyên gạ gẫm tình dục những cậu con trai và quyến rũ (cám dỗ) chúng có những hành động tình dục đồng tính. Một số khác miêu tả những quán bar dành cho những người tình dục đồng giới là nơi cả đàn ông và đàn bà đến để tìm kiếm những người đồng tính khác, họ là những người có thể chấp nhận nhau, có thể có các mối quan hệ bạn bè, và sự liên quan tình dục với nhau. Các bài báo cáo như thế miêu tả cách không nghi ngờ gì chỉ đối với thiểu số những người đồng tính luyến ái và bỏ qua một sự thật là, do nhiều người né tránh các quán bar dành cho những người tình dục đồng giới và tránh sự chung chạ tình dục, đặc biệt là bây giờ khi sự quan tâm về AIDS là quá phổ biến.31 Vì thế, các bài báo cáo từ các nguồn thông tin đã làm thức tỉnh nỗi sợ hãi và sự khiếp sợ trong tâm trí của nhiều người, gồm cả các thành viên trong Nhà thờ.
Những người cố vấn nên nhớ rằng không có lối sống đồng tính luyến ái điển hình. Sẽ là không chính xác, thiếu nhạy bén, và thiếu tế nhị nếu kết luận rằng hầu hết những người đồng tính luyến ái là những người hy vọng nơi các quán ba, là những nhà hoạt động, những người “diễu hành” trong sự yêu thích các quyền lợi của những người tình dục đồng giới, những tên gạ gẫm trẻ con, những người đàn ông có cách cư xử giống như đàn bà hay không mang tính đàn ông (trong người những người đàn ông; tính đàn ông của những đàn bà thích đồng dục nữ), không thích nghi được tâm lý,32 hoặc là những người liên tục ám ảnh tình dục. Những quan niệm rập khuôn như thế khiến các Cơ Đốc Nhân đẩy những người đồng tính luyến ái ra xa và từ chối họ, về tình yêu thương và sự chấp nhận, là những điều nên được tìm thấy trong cộng đồng Nhà thờ. Dĩ nhiên, mỗi đặc điểm trong những đặc điểm trên miêu tả về một vài người đồng tính luyến ái, sự thật cũng có nhiều người đồng tính được luật pháp chấp nhận, một số là những thành viên được chấp nhận trong cộng đồng. Một số người sống với nhau trong các mối quan hệ đồng tính không che giấu; mặc dù như chúng ta biết, có những người khác luôn tìm cách giữ kín những xu hướng đồng tính của họ và họ kiểm soát nó. Ước tính có 10% trong số những người đã trưởng thành tại Hoa Kỳ, là những người tình dục đồng giới. Nếu như điều này là thật, thì rất có thể có một số người đồng tính trong Nhà thờ, mặc dù việc nhận dạng ra họ có thể được che giấu kỹ lưỡng.
Những xu hướng đồng tính luyến ái rõ ràng có ảnh hưởng đến nhiều người, và những lối sống của họ là khác nhau (theo nhiều cách). Một số người thì cởi mở về những xu hướng hay sở thích tình dục của họ; những người khác thì che giấu (không có cơ sở nào hay dấu tích nào từ họ) những xu hướng của họ đi; nhưng sống với một nỗi sợ hãi im lặng và tồn đọng – định hướng đồng tính luyến ái – có thể lại xuất hiện một cách tình cờ và hướng tới sự mất mác bè bạn, công việc, và sự chấp nhận từ những người khác.
2. Những ảnh hưởng từ cảm xúc và tự quan niệm. Trước sự cởi mở gần đây về vấn đề đồng tính luyến ái, một số người tình dục đồng giới đã kết luận: không chỉ người tình dục đồng giới là “tốt”, nhưng “được làm” người tình dục đồng giới là “giỏi hơn” những người khác. Nhưng phổ biến hơn là cảm giác bất an và sự tự ti mặc cảm là điều thường xảy ra cho bất kỳ ai trong số đó. Lầm lỗi về những xu hướng hoặc những hành động đồng tính luyến ái, sự cô đơn, nỗi sợ hãi sự đồng tính của mình có thể bị người khác khám phá, một cảm giác mất hy vọng (thỉnh thoảng dẫn tới việc uống rượu và đôi khi là tự sát), và một cơn giận dữ ngấm ngầm; tất cả đều được thấy nơi những người đồng tính luyến ái. Những người khác thì tranh chiến với các chủ đề về sự nhận dạng này và với những câu hỏi về nó cho chính họ trong xã hội.33 Đối với nhiều người, đặc biệt là những người chưa lập gia đình, chuyện đi đến các quán bar dành cho những người tình dục đồng giới là một cố gắng tìm kiếm tình yêu và sự ủng hộ từ những người hiểu biết về nan đề này, họ có thể tìm thấy cảm giác của sự tự-cho mình là có tự tin và họ có thể xoa dịu nỗi đau bên trong của những người tình dục đồng giới.
3. Những ảnh hưởng từ mối quan hệ. Trong khi một số người đồng tính luyến ái xây dựng các mối quan hệ thân mật mang tính ủng hộ với những người khác đồng tính, các mối quan hệ này thường là tạm thời, và vì nhiều người chẳng bao giờ phát triển được các mối quan hệ như thế.34 Trong một thế giới mang giá trị “trẻ trung” (thanh niên), “nam tính”, và có những cái nhìn tốt đẹp; thật là khó để tìm kiếm sự thân mật và sự chấp nhận, nếu như một người thiếu đi những phẩm chất này. Những người đã lập gia đình giữ kín được sự đồng tính luyến ái của họ (thỉnh thoảng ngay cả với người phối ngẫu), họ có thể phát hiện ra những sở thích, những tưởng tượng tình dục của họ, hoặc các nỗi sợ hãi về việc bị từ chối có thể đặt một sức ép lên các cuộc hôn nhân của họ và ngăn chặn họ không gần gũi với những người khác, vì sợ rằng những xu hướng đang được che giấu này có thể bị bùng phát và trở nên rõ ràng. Những người này là những người cởi mở về sự đồng tính luyến ái của họ, họ có hướng không thích các mối quan hệ xã hội lâu bền, ít muốn thay đổi, và ít hoàn thành hơn là những người có tình dục với người khác giới.35
Lúc này, cần có mối quan hệ của người đó với Đức Chúa Trời. Từ khi cách cư xử đồng tính luyến ái bị xem là tội lỗi, thì sự liên quan trong hoạt động này đặt ra một rào cản giữa người đó với Đức Chúa Trời. Nhiều Cơ Đốc Nhân thất bại để phân biệt giữa cách cư xử đồng tính luyến ái (gồm sự thèm khát nhục dục, là tội lỗi) với những xu hướng và những sự khát khao đồng tính trong con người của họ – là không tội lỗi. Sự thất bại để nhận ra sự khác biệt này có thể dẫn tới những nổ lực không ngừng để quanh quẩn trong những xu hướng tình dục đồng giới của người đó. Khi điều này chứng tỏ là không có hiệu quả (là vô ích), thường có sự thất vọng, lầm lỗi, một sự yếu kém thuộc linh, hoặc đôi khi xảy ra chuyện một Nhà thờ trong các Nhà thờ “dành” cho những người tình dục đồng giới chấp nhận cách cởi mở và thậm chí còn khuyến khích sự đồng tính luyến ái.
Sau khi đọc chương này, một người đàn ông trẻ tuổi đã viết – anh cảm thấy được những người khác chấp nhận khi họ coi anh như là một người tình dục khác giới, nhưng anh cảm thấy có một rào cản đang phát triển, nếu như có bất kỳ ai phát hiện ra: anh đang tranh chiến với sự đồng tính luyến ái. Anh viết “Tôi muốn được chấp nhận như là một Cơ Đốc Nhân giống như những người khác trong Nhà thờ, ngoại trừ việc tôi đang tranh chiến với sự đồng tính luyến ái của tôi. Đôi khi tôi đắn đo – nếu như có một nơi mà ở đó một người như tôi có thể thật sự cảm thấy được chấp nhận, thì chỉ có trong các Nhà thờ dành cho những người như tôi, thay vì trong Nhà thờ thật của Đức Chúa Jêsus-Christ.”
4. Những ảnh hưởng từ gia đình. Những người đồng tính luyến ái thường hối tiếc về việc họ không có con cái,36 và những người này chỉ có thể có con cái từ một cuộc hôn nhân trước đó với người khác giới; do đó chúng ta thường thấy: các bậc cha mẹ là những người có tình dục đồng giới gặp một vài vấn đề khi làm bố mẹ. Trong những trường hợp chờ xét xử (tạm giam), tòa án hiếm khi để con cái cho cha mẹ nào đồng tính, bởi vì có nỗi sợ hãi: (1) đó là đứa con sẽ trưởng thành như là một người đồng tính, nếu như nó được nuôi dưỡng bởi một ông bố hay bà mẹ đồng tính; (2) đứa trẻ có thể bị gạ gẫm tình dục, nếu như được nuôi dưỡng trong một môi trường đồng tính tại nhà; hoặc (3) đứa trẻ sẽ bị bêu xấu bởi những đứa bạn đồng trang lứa với nó, nếu như định hướng tình dục của cha hay mẹ nó bị nhiều người biết đến. Không có chứng cớ rõ ràng nào tồn tại để ủng hộ hai nỗi sợ hãi đầu trong những nỗi sợ hãi này, và những nguồn thông tin chủ yếu ủng hộ nỗi sợ hãi thứ ba.37 Trẻ em của các bậc cha mẹ đồng tính thiếu đi tấm gương (ví dụ) về nam tính hay nữ tính từ người cha hay người mẹ của chúng tại nhà, nhưng cũng là thật đối với những đứa trẻ trưởng thành trong những gia đình chỉ có mẹ hay có cha, khi người mẹ hay người cha này là người có tình dục với người khác giới.
Việc tiếp xúc với trẻ em có thể là khó khăn cho những người đồng tính luyến ái; nhưng đối với nhiều người, càng khó khăn hơn để quan hệ với bố mẹ thật của chúng. Nhiều bậc cha mẹ chịu sức ép khi họ biết đứa con của họ là đứa đồng tính, và những nỗi sợ hãi này càng lớn hơn khi các bậc cha mẹ xem sự phổ biến của bệnh dịch AIDS là hiện trạng xảy ra rất nhiều trong số những người có tình dục đồng tính. Các bậc cha mẹ hoang mang, nhiều lầm lỗi, và sợ hãi vì thỉnh thoảng cảm thấy bị xa lánh bởi những người bạn của họ; và họ không chắc về việc nên phản ứng ra sao đối với những đứa con đồng tính của mình và những người bạn tình cũng đồng tính như chúng.38 Những đứa trẻ đồng tính lớn từ từ có thể cảm thấy lầm lỗi về nỗi đau đồng tính của chúng, nó dán chặt vào cuộc sống của bố mẹ chúng. Tất cả đều có thể gây ra sự căng thẳng tại nhà.
HUẤN THỊ NGƯỜI ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Nơi để bắt đầu việc tư vấn là với những thái độ cá nhân của bạn. Nếu như bạn e ngại những người đồng tính luyến ái, ngại phải đùa giỡn về họ, định tội họ, chấp nhận cách miễn cưỡng những quan niệm rập khuôn, hoặc không quen với sự phức tạp của sự đồng tính và các nguyên nhân của nó; lúc ấy, bạn sẽ không thể giúp đỡ hiệu quả được. Chúa Jêsus yêu thương mọi tội nhân, và những người bị cám dỗ. Chúng ta là những người tìm cách theo đuổi những bước đi của Ngài và chúng ta nên làm giống như Ngài. Nếu như chúng ta không cảm thấy động lòng trắc ẩn đối với những người đồng tính luyến ái tỏ lộ, hoặc đối với những người có những xu đồng tính, thì chúng ta phải cầu xin Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lòng thương xót mà chúng ta còn thiếu. Chúng ta phải tự xét lại những thái độ cá nhân của chúng ta đối với những người tình dục đồng giới, phải tìm cách hiểu về tính đa dạng của vấn đề đồng tính luyến ái, và nên tránh tư vấn cho những người có chiều hướng đồng tính luyến ái mà không muốn thay đổi; đồng thời nên tránh những thái độ tiêu cực của chúng ta về họ hoặc về việc chúng ta không vui vẻ để thay đổi.39
Một ý tưởng, một chuyện hoang đường – là phải thay đổi quan niệm cho rằng đồng tính luyến ái là một căn bệnh không thể chữa được. Đồng tính luyến ái không phải là một căn bệnh; nó là một xu hướng (thường có những tưởng tượng hoặc hành động gợi tình) nhưng không luôn luôn hướng đến những sự tưởng tượng thường xuyên hoặc những hành động trong cách cư xử khiêu dâm đồng giới. Qua những bằng chứng cho thấy, nếu đồng tính luyến ái cơ bản là một điều kiện cần được học tập, thì sau đó nó có thể là không cần được học tập. Nếu như cách cư xử đồng tính luyến ái là tội lỗi – như Kinh Thánh dạy – thì sự tha thứ là luôn sẵn sàng, và vì thế sự giúp đỡ thánh có thể giúp một người có chiều hướng đồng tính khỏi tội lỗi tình dục.
Sự thay đổi chẳng bao giờ là dễ dàng đối với những người đồng tính luyến ái và với những người cố vấn của họ. Tỷ lệ người được tư vấn bỏ dỡ sự tư vấn nửa chừng là rất cao, và các báo cáo đầy lạc quan từ những “cộng đồng” người có tình dục đồng giới-trước đây (những người “nhiễm” đồng tính trước) thường trở nên công khai và phấn khích hơn.40 Vì thế, sự thay đổi (ngay cả đối với những xu hướng và cách cư xử của những người có tình dục với người khác giới) là điều có thể,41 đặc biệt là khi hiện nay đã có một số thay đổi sau đây (hoặc ở trong hiện tại, hoặc tốt hơn là sau này vẫn thay đổi):
• Người được tư vấn thành thật đối diện với sự đồng tính luyến ái của mình.
• Người được tư vấn có một sự khao khát mạnh mẽ để thay đổi.
• Người được tư vấn vui vẻ không tiếp xúc với những người bạn đồng tính như mình, là những người cám dỗ người được tư vấn này vướng vào trong cách cư xử đồng tính.
• Có một sự vui vẻ để tránh dùng các loại thuốc và alcohol từ lúc những cám dỗ (thói quen) này có hướng làm tổn thương bởi sự cám dỗ của chúng.
• Người được tư vấn có thể xây dựng một mối quan hệ gần gũi, thân mật không tình dục với người cố vấn hoặc với người đồng-giới khác.
• Người được tư vấn kinh nghiệm được sự chấp nhận và tình yêu thương của nhiều người ngoài những người bạn và những sự tiếp xúc đồng tính.
• Người được tư vấn dưới 35 tuổi và/ hoặc không liên quan sâu đậm vào những sự tiếp xúc đồng tính với những người khác.
• Người được tư vấn có một sự khao khát tránh thoát tội lỗi, cam kết và phó thác cuộc sống và các vấn đề của mình lên cho Đức Chúa Jêsus điều hướng và quản trị chúng.
Những sự lưu ý ban đầu này nên được ghi nhớ và có thể được đem ra để thảo luận với người đồng tính luyến ái đang tìm sự giúp đỡ. Lúc này, người cố vấn có thể giúp đỡ với những cách sau:
1. Xác định các mục tiêu tư vấn.
Khi một người nào đó đến tìm sự giúp đỡ, điều mà người này muốn: sụ đánh giá về những xu hướng đồng tính luyến ái, sự hiểu biết về sự dạy dỗ trong Kinh Thánh đối với đồng tính luyến ái, sự giúp đỡ trong việc chấm dứt cách cư xử đồng tính, sự tiếp tục thừa nhận hoạt động đồng tính, sự giúp đỡ trong việc quan hệ tốt hơn với một bạn tình đồng tính, hoặc một điều gì khác chăng? Thỉnh thoảng người được tư vấn không thật sự có sự khao khát để thay đổi, nhưng họ vẫn tìm đến với người cố vấn vì sự thúc ép từ cha mẹ, từ người lãnh đạo Thanh niên, hoặc người phối ngẫu của họ. Giả sử rằng bạn không biết gì về điều mà người đó muốn cho tới khi bạn hỏi và thảo luận các câu trả lời của người được tư vấn.
2. Làm thấm nhuần hy vọng thực tế.
Rõ ràng, không dễ dàng gì để tư vấn những người đồng tính luyến ái. Trong khi các hành động đồng tính có thể chấm dứt và được Đức Chúa Trời tha thứ hoàn toàn, nhưng những xu hướng đồng tính vẫn là vấn để rất khó khăn để trừ tiệt. Thỉnh thoảng một người sẽ không thay đổi để chuyển sang một định hướng tình dục với người khác giới, nhưng người này có thể được giúp đỡ để sống một cuộc sống chiến thắng, đầy ý nghĩa, tự do khỏi những rào cản và hoạt động đồng tính.
Điều này có vẻ như là sự kết luận của các nhà tâm lý Cơ Đốc David Myers và Malcolm Jeeves:
Những người đồng tính luyến ái có thể có sự xung đột, phớt lờ hoặc từ chối những sự khao khát của họ, và họ có thể thành công trong việc tránh các hành động do những sự khao khát của họ; nhưng những sự khao khát như vậy hiếm khi biến mất. Nếu như họ cố gắng thay đổi xu hướng tình dục của mình qua sự nổ lực, bằng liệu pháp tâm lý, hoặc bằng sự cầu nguyện; họ có thể tìm thấy những cảm giác còn tồn đọng như những người có tình dục với người khác giới. Đây là kinh nghiệm của một số nhà thành lập ra các chương trình Cơ Đốc “dành cho những người tình dục đồng tính-trước”...
Sự chấp nhận những giới hạn dựa trên khả năng của chúng ta để đem lại sự thay đổi có thể đang được giải phóng ... Nó làm cho chúng ta hàng ngày tự do sống với lầm lỗi và sự tự trách mình về việc không thành công trong bất cứ điều gì mà chúng ta vẫn có suy nghĩ là chúng ta sẽ làm được. Cách để chính mình có được sự bình an là bạn có thể nói rằng ân điển đã đến với tôi, chỉ tôi là... Liệu những sự khao khát của tôi có phải là với người khác giới hoặc với người đồng giới...
Nhưng sẽ không có một cơn giận dữ nào nếu như chúng ta nói không? ... Thay vào đó, nếu như định hướng tình dục của một người không được chọn lựa một cách có chủ tâm thì cũng không thể thay đổi cách dễ dàng được; vẫn không có những sự lựa chọn đúng đắn về đạo đức từ bên trong năng lực của người đó? Liệu người có tình dục với người khác giới hoặc với người đồng tính, người đó có thể lựa chọn cam kết trong tình dục chung chạ bừa bãi, để lựa chọn cuộc sống không kết hôn, hoặc để dính líu vào một mối quan hệ gắn bó, yêu thương, và lâu dài không? Định hướng tình dục tự nó không tạo ra sự lựa chọn, cũng không phải là một sự xin lỗi đối với sự khai thác tình dục của bất kỳ ai.42
Mặc dầu việc thay đổi là khó khăn, nhưng vẫn có nguyên nhân để hy vọng, đặc biệt là khi người ta thành thật muốn thay đổi; nhưng bạn có thể phải luôn nhắc nhở những người được tư vấn của mình (và chính bạn) về vấn đề này. Những hành động đồng tính luyến ái tội lỗi có thể được chấm dứt nhờ sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời; những bẩm chất đồng tính thân mật có thể được thay đổi; nhưng nếu như nó không xảy ra, thì định hướng tình dục có thể vẫn sống với người đó và cuộc sống vẫn có thể được hoàn tất.
3. Chia sẻ kiến thức. Những người đồng tính luyến ái tìm đến sự tư vấn có thể tin vào một số chuyện hoang đường vĩ đại nhất trong từng vấn đề. Khi tiến trình tư vấn bắt đầu, hãy cảnh giác đối với những chuyện hoang đường này và tìm kiếm những cơ hội để thách thức những quan niệm sai và thay thế chúng bằng những thông tin chính xác về sự đồng tính và về việc quan hệ tình dục bình thường của con người. Chẳng hạn như, có thể bạn đang khuyến khích người được tư vấn biết: những người có những cảm giác đồng tính luyến ái không phải tất cả đều không có khả năng hoặc không tài giỏi gì, không phải họ đều bị bệnh về trí tuệ, hoặc không thể chữa trị được, hoặc họ đang lầm đường lạc lối, bị Đức Chúa Trời khước từ, hoặc họ không thể mang chức năng cách hiệu quả trong xã hội. Đôi khi bạn có thể sẽ chia sẻ những sự dạy dỗ trong Thánh Kinh về vấn đề đồng tính luyến ái cho họ, đặc biệt là về sự khác biệt giữa những xu hướng đồng tính và những hành động đồng tính.
4. Thể hiện tình yêu thương và sự chấp nhận đối với người khác.
Một lần kia trong một Nhà nguyện nọ, bằng sự thể hiện không chút sợ hãi nhưng tỏ ra rất sáng suốt, một sinh viên trường dòng Cơ Đốc đã nói về những xu hướng đồng tính luyến ái của mình và công việc trong giáo đoàn của anh, trước cộng đồng dành cho những người tình dục đồng giới:
Có hàng tá và hàng tá các quán bar dành cho những người tình dục đồng giới ở Chicago. Hãy đến một trong các quán bar đó tối nay với tôi, vào lúc 3 giờ sáng. Tôi sẽ chỉ cho bạn một vài người đáng yêu nhất trên thế giới này, họ là những người đang gào thét, khẩn khoản cần được yêu. Có hàng trăm và hàng trăm người như thế, và ở nơi đó, không lẽ chí có chúng ta là những người biết về tình yêu thương của Đấng Christ thôi ư? Chắc chắn rằng cuộc nghiên cứu về tình yêu thương thường bị xoắn vào hay làm sai đi, thay vào đó là những sự thể hiện tội lỗi; nhưng sự đói khát, sự kêu khóc của trái tim, sự trống rỗng; tất cả đang tìm cách lấp đầy tình yêu thương của Đức Chúa Trời, là Đấng công bình và đang hiện diện trong bạn và tôi. Những người bạn Cơ Đốc cần nên có ở đó; không phải là những người truyền giáo đang nắm trong tay mình bộ máy đàm thoại (có nghĩa là chỉ thuyết giảng như cái máy khi ta gặp họ), nhưng để lắng nghe những người bạn đáng thương đang nói gì...
Hơn bất kỳ điều gì khác, một người đang tranh chiến với sự đồng tính của mình, dù là Cơ Đốc Nhân hoặc không phải là Cơ Đốc Nhân đều nên có một nhu cầu “thách thức” về tình yêu thương. Người này đang bị tổn thương vì mắc bệnh di truyền từ các thành viên trong gia đình, vì những ảnh hưởng môi trường đang xoắn chặt, hoặc cơ bản là vì tội lỗi ảnh hưởng đến mọi người chúng ta. Còn hơn cả là một nạn nhân (không thể chống cự nỗi), người tình dục đồng tính đã là một nạn nhân của tội lỗi. Người này bị tổn thương và thường phải chịu đựng nhiều với xu hướng của mình mà người này đã không thừa hưởng hoặc lựa chọn; nhưng tốt hơn là người này đã học tập lâu dài trước tuổi chịu trách nhiệm (về chính mình). Thường như là điểm cuối cùng trong sự sa ngã vào tình dục đồng giới, người này đã tìm kiếm tình yêu thương và trở nên yêu tình dục làm ô uế. Vì lý do ấy, tại sao người này cần có một người bạn Cơ Đốc? Bởi vì chúng ta có Đấng Christ trong chúng ta, và chúng ta biết tình yêu thương của Ngài, là năng quyền để chữa lành, mang lại sự cứu chuộc, và được thánh hóa bởi Đức Chúa Trời, là Đấng yêu thương. Toàn thế giới của chúng ta có một nhu cầu bức thiết để thấy được tình yêu thương này nơi Đấng Christ, để cảm nhận được nó, đụng chạm nó, kinh nghiệm nó một cách cá nhân; và chúng ta là những công cụ của Ngài để giúp người khác tìm thấy được.43
Theo như người phát biểu ở trên, cộng đồng Cơ Đốc nên tiến tới, chấp nhận người được tư vấn, và đem lại tình yêu thương ấy để tiếp tục giúp cho việc tư vấn cá nhân có hiệu quả hơn. Các Cơ Đốc Nhân cũng có thể thể hiện khả năng có những người bạn thân với những người đồng phái hay khác phái, mà không cần thiết liên quan đến tình dục. Việc không giao thiệp hay quan hệ với những người bạn tình dục đồng giới của ai đó, là làm đe dọa và liên quan tới một tiến trình ngắn gọn và thực tế khi người đó mất đi những người đã ủng hộ và chấp nhận họ. Nếu như không có cộng đồng những người tin Chúa ủng hộ, đang mong đợi và vui vẻ chấp nhận họ như là những người đồng tính luyến ái; thì lúc này họ có thể có xu thế dễ dàng quay lại lối sống cũ của họ.
Kinh nghiệm của một mối quan hệ gần gũi không tình dục với một người cố vấn đồng tính là mục tiêu căn bản của Moberly, đó là giúp đỡ những người đồng tính luyến ái. Khi có được sự chấp nhận và tình yêu thương từ người đồng-tính khác, sự chữa lành hầu như chắc chắn xảy ra, đặc biệt là nếu như mối quan hệ này đi kèm với lời cầu nguyện.44
5. Khuyến khích sự thay đổi cách cư xử.
Ngay cả khi có tình yêu thương và sự chấp nhận, sự thay đổi vẫn sẽ không xảy ra cho người tiếp tục liên quan với những người đồng tính luyến ái khác. Nếu như sự liên quan này vẫn tiếp tục trong một thời gian dài, nó có thể khó mà dừng lại được. Sau một quyết định có chủ ý để thay đổi, người được tư vấn có thể kinh nghiệm những sự tái phát và thỉnh thoảng có thể kháng cự lại ý tưởng để thay đổi có chủ tâm ban đầu. Sự kháng cự như thế nên được thảo luận với một cá tính thẳng thắn, kiên nhẫn, hòa nhã, và kiên quyết.
Một cách để giúp đỡ thay đổi cách cư xử là né tránh những nơi đông người, những nơi công cộng, và những tình huống có thể dẫn đến sự thức tỉnh tình dục. Điều này có thể hướng người đó tới sự cô đơn và một sự thay đổi lối sống, nhưng đây là một cái giá mà người ta phải trả. Hãy nhắc nhở người được tư vấn rằng, Đấng Christ là Đấng tha thứ45 và Đức Thánh Linh luôn luôn có mặt để giúp đỡ chúng ta chống cự lại sự cám dỗ và từ bỏ cách cư xử tội lỗi. Điều này sẽ dễ dàng hơn nếu như có nhiều người khác cùng giúp đỡ, liên tục khích lệ và có sự thăm viếng, tiếp xúc với nhau.
Tại điểm này, cũng có thể có giá trị trong sự thảo luận về lối sống của người được tư vấn. Tình dục là một phần của cuộc sống, nhưng ngoài ra còn có sự thờ phượng, công việc, gia đình, sự giải trí, sự quản lý thời gian, hoạt động thể thao, và nghỉ ngơi. Một người không thể tìm thấy sự trọn vẹn trong cuộc sống khi họ chỉ có sự thỏa mãn tình dục và không gặp các vấn đề gì; tất cả đều sẽ biến mất nếu như sự tư vấn chỉ tập trung xem xét về vấn đề tình dục, điều này sẽ không xảy ra trừ khi người được tư vấn tìm thấy sự thỏa mãn và những cảm giác cá nhân về việc nhận ra các lãnh vực không tình dục của cuộc sống. Như thế, mối quan hệ của người đó với Đấng Christ, sự liên hệ với Nhà thờ, với công việc, hoặc các hoạt động giải trí, sẽ có xu thế rơi trở lại vào trong các mối quan hệ đồng tính luyến ái khi có những sức ép xảy ra. Một cuộc sống cân bằng là một phương thuốc có ý nghĩa phổ biến, đặc biệt là đối với những người có những cảm giác và hành động ít nghiêm trọng và thoáng qua về đồng tính luyến ái.46
6. Nhận ra rằng sự tư vấn có thể là phức tạp và tốn thời gian. Đồng tính luyến ái là một vấn đề phức tạp, thường đó là một vấn đề thâm căn cố đế, và khó khăn để điều trị, đặc biệt nếu được thực hiện bởi một người cố vấn hạn chế khi được huấn luyện hoặc bị giới hạn trong việc tư vấn những người đồng tính. Điều này không có nghĩa là làm cho bạn nản chí. Thay vì thế, đây là lời cảnh báo bạn về sự phức tạp của nó, về nhiệm vụ và công việc của bạn, đồng thời cho thấy sự cần thiết trong một số trường hợp cần có sự chuyển nhượng đến một người cố vấn khác, vì có thể đó là cách tốt nhất để giúp đỡ.
Tại sự mạo hiểm của việc quá đơn giản hóa vấn đề, chúng ta chỉ sẽ đề cập đến ba trong nhiều mục tiêu của việc tư vấn những người đồng tính luyến ái.
(a) Những Mục Tiêu Thuộc Phân Tâm Học. Đây là một mục tiêu lâu dài, tốn kém, và sâu rộng; mục tiêu này nhằm vào việc giúp đỡ người đồng tính luyến ái đạt được sự khai trí về các nguyên nhân của sự định hướng của mình. Đã có nhiều sự tranh cãi về việc, liệu những người đồng tính luyến ái thật sự có được giúp đỡ từ mục tiêu này hay không. Ngay cả nếu như điều này có thể được thể hiện, họ được giúp đỡ, thì cũng không thực tế để suy nghĩ rằng hầu hết những người được tư vấn có thể liên tục nổ lực trước yêu cầu đối với sự chữa trị thuộc phân tâm học, là phải có từ 150-350 buổi trong sự tư vấn riêng lẻ.47
(b) Những Mục Tiêu Thuộc Cách Cư Xử. Được đặt nền tảng trên các nguyên tắc của điều kiện và sự học tập, các mục tiêu này nhằm cố gắng giúp đỡ những người được tư vấn không phát triển những sở thích của họ trong việc quan hệ tình dục đồng giới, đồng thời tiếp thu thêm được một định hướng về quan hệ tình dục với người khác giới. Ít nhất hoặc không có bất cứ sự nhấn mạnh nào được đặt ra nhằm xem xét về khả năng có những sự can thiệp từ gia đình hoặc từ các nỗi sợ hãi, rằng chúng có thể đã gây ra sự đồng tính luyến ái. Mặc dù phương pháp này được áp dụng với việc giảm bớt sự thường xuyên, một số cố vấn còn kích thích sự thức tỉnh tình dục (một số có thể dùng lời nói khiêu dâm) bằng cách cho những người được tư vấn xem những bức ảnh đồng tính, kèm với cú sốc điện giật nhẹ nhàng. Điều này đi kèm theo với sự trình diễn những bức ảnh của những người có tình dục với người khác giới mà không có cú sốc nào xảy ra. Một số những người cố vấn khác thì khuyến khích những cách cư xử của những người có tình dục với người đồng giới ngoài hôn nhân bằng một nổ lực kích thích họ có quan hệ tình dục với người khác giới. Những thực tế này mang lại hiệu quả rất giới hạn, bởi vì nó đụng đến những sự ám chỉ tội lỗi đạo đức của họ; đây là điều các Cơ Đốc Nhân nên tránh đi. Một số phương pháp khác thuộc về cách thực hiện có chiều hướng làm thay đổi cách cư xử và làm giảm đi sự lo lắng, nhưng chúng có thể tạo ra rất ít sự thay đổi về những định hướng đồng tính luyến ái, và có rất ít bằng chứng cho thấy sự thay đổi trong cách cư xử là mãi mãi.
(c) Mục Tiêu Nhiều-Thời Kỳ. Theo như John Powell, một người cố vấn Cơ Đốc tài năng của trường đại học tiểu bang Michigan, thì mục tiêu này có hai giai đoạn: trước-nhiều (premultiple) và nhiều (multiple). Trong thời kỳ trước-nhiều, người được tư vấn cần có một vài buổi trao đổi với một người cố vấn đồng-tính; người cố vấn này thể hiện sự chấp nhận, sự thân thiện, và sự ủng hộ trong khi có sự thảo luận về các nguyên nhân và những sự ám chỉ có thể có về sự đồng tính luyến ái trong lối sống của người được tư vấn, và cân nhắc về cách cư xử đồng tính của người được tư vấn với các mục tiêu cho việc tư vấn. Sau đó, có một sự thay đổi đối với thời kỳ-nhiều. Tại đây, người cố vấn nam và nữ cùng làm việc chung với một người được tư vấn với một nổ lực thể hiện cho thấy người đàn ông và người đàn bà quan hệ thế nào trong những cách có thể làm thỏa mãn cho nhau, để giúp đỡ người được tư vấn giải quyết những mâu thuẫn tồn đọng với cha mẹ của họ, và để dạy dỗ người được tư vấn quan hệ thế nào với những người nam và những người nữ trong những cách trọn vẹn cho nhau.48
Mục tiêu của Powell và những người cộng sự của ông là nhấn mạnh về giá trị giúp đỡ những người được tư vấn kiểm tra lại nền tảng gia đình và các nguyên nhân khác về sự đồng tính luyến ái của họ, để giúp họ học biết nên quan hệ thế nào với những người khác (cả hai phái) theo những cách lành mạnh. Một mục tiêu như thế cũng cho phép những người cố vấn thảo luận về bản chất tội lỗi của cách cư xử đồng tính luyến ái và để thách thức những người được tư vấn thay đổi những hành động của họ nhờ sự giúp đỡ thánh. Lúc ấy, điều này sẽ giải quyết nhiều hơn cách cư xử trong hiện tại, mục tiêu (hoặc một cái gì khác giống như nó) cũng có thể giúp người khác thay đổi những xu hướng đồng tính luyến ái.
SỰ NGĂN CHẶN ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Như chúng ta biết, có bằng chứng thuyết phục cho thấy đồng tính luyến ái cơ bản là một tình trạng được học tập, bị ảnh hưởng cách nhẹ nhàng (nếu như là mạnh mẽ) bởi những sự ảnh hưởng từ di truyền, tuyến, hoặc từ tâm lý. Nếu như điều này là thật, thì chắc chắn sự đồng tính luyến ái có thể được ngăn chặn, bằng cách cung cấp những kinh nghiệm được học tập để kích thích sự khác giới tính. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta có thể đưa ra một bài giảng hoặc giao cho người được tư vấn nhiệm vụ phải đọc hết, và trông chờ điều này sẽ ngăn chặn được sự đồng tính. Việc học tập này phải bắt đầu tại nhà ngay trước khi đứa trẻ biết đọc thế nào.
1. Xây dựng những môi trường gia đình lành mạnh. Từ khi vấn đề đồng tính luyến ái xảy ra thường xuyên từ các mối quan hệ cha mẹ-con cái không như ý muốn, thì gia đình là nơi mà sự ngăn chặn phải được bắt đầu. Không nghi ngờ gì, điều này là thật – không có người cha hay mẹ nào có một cuộc hôn nhân hạnh phúc lại nhờ con trai hoặc con gái giúp đỡ đối với một mối quan hệ nên có với người phối ngẫu của mình. Không có người cha nào khước từ hoặc phớt lờ những đứa con của mình nếu như ông có một cuộc hôn nhân mà ông hài lòng, một công việc không chiếm hết thời gian của ông, và cảm giác an toàn mà ông có về khả năng nam tính của mình và ông cảm thấy tự tin mình là một người đàn ông.50 Không có đứa trẻ nào dường như trở nên đồng tính luyến ái nếu như nó có mối quan hệ ấm áp và đầy cảm xúc, đặc biệt với cha mẹ của nó.
Tất cả các điều trên cho thấy, Nhà thờ ngăn chặn sự đồng tính luyến ái khi, sự kích thích trên các thành viên trong gia đình chủ yếu dựa vào sự dạy dỗ của Kinh Thánh, mà người cha và người mẹ duy trì những vai trò khác nhau một cách rõ ràng; người cha là một người lãnh đạo trong gia đình (tại nhà), con cái phải tôn trọng và ở dưới kỷ luật, và cha mẹ có một mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau. Những gia đình ổn định kích thích các thành viên trong gia đình có những thái độ về tình dục với người khác giới một cách lành mạnh.
2. Đưa ra thông tin chính xác về đồng tính luyến ái. Thật buồn để quan sát thái độ định tội và sự kinh tởm mà rất nhiều Cơ Đốc Nhân thể hiện đối với sự đồng tính luyến ái. Trưởng thành trong một môi trường như thế, những người trẻ sẽ tiếp thu sự sợ hãi trước những người đồng tính luyến ái và bóp nghẹt bất kỳ những xu hướng tình dục đồng giới trong chính con người họ. Thay vì chấp nhận và giải quyết những sở thích đồng-tính của mình, những người trẻ này sẽ tìm cách che giấu chúng đi. Lúc ấy, họ không thể có được sự hiểu biết cần thiết và không thấy cần đến sự giúp đỡ từ cha mẹ hoặc các thành viên trong Nhà thờ; và theo thời gian họ có thể bị trôi dạt hướng tới các nhóm người đồng tính là những người có thể hiểu họ, chấp nhận và yêu thương họ. Vì thế, với thái độ định tội như vậy, đôi khi Nhà thờ đẩy những người này vào trong các tình huống có sự khích lệ từ cách cư xử đồng tính cách công khai.
Sự thay đổi không làm phát triển những thái độ khoan dung, thái độ khoan dung này khước từ tội lỗi của những hành động đồng tính luyến ái. Sự thay đổi, đối với các Nhà thờ là việc dạy dỗ điều mà Kinh Thánh nói về sự kiểm soát tình dục, tình yêu thương, bạn bè, và tình dục (bao gồm đồng tính luyến ái). Các nhà lãnh đạo tôn giáo nên thể hiện một thái độ nhơn từ và khuyến khích, hơn là một thái độ định tội. Những quan niệm rập khuôn về sự đồng tính luyến ái (một số được dạy trong các cuốn sách Cơ Đốc phổ biến về những người có tình dục đồng giới) nên được phơi bày để mọi người thấy: đâu là những điều không thật; những người thờ ơ, phớt lờ kéo dài mãi, sẽ càng kích thích sự sợ hãi, đẩy những người đồng tính luyến ái ra khỏi mối thông công Cơ Đốc, và phục vụ chủ yếu để khích lệ cảm giác cá nhân của sự chỉ trích sự tốt hơn về sự tự-cho mình là công bình. Tất cả những điều này ám chỉ đến việc nên thảo luận về các chủ đề liên quan đến đồng tính luyến ái trong Nhà thờ thay vì khước từ chúng. Điều này là thật, ngày nay còn thật hơn nữa, bởi vì nạn dịch nguy hiểm AIDS xuất hiện rất nhiều trong những người đồng tính luyến ái.51
Khi sự đồng tính luyến ái trở nên công khai, rất có thể sẽ hình thành một thói quen trong cách đáp ứng bởi sự kích thích từ môi trường như vậy, Nhà thờ nên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự tự-điều hướng tình dục của mình. Điều này chỉ xảy ra qua sự cầu nguyện, suy gẫm Kinh Thánh, tránh những tình huống hoặc những người làm thức tỉnh tình dục, có những quyết định cân nhắc, kỹ lưỡng để tránh những hành động tội lỗi, và tạo thói quen chịu trách nhiệm đối với một người bạn hoặc người cố vấn hiểu biết.
3. Phát triển những sự tự-quan niệm lành mạnh. Cách đây một vài năm, George Gilder đã nhận định: “có hàng triệu người đàn ông đang ở dưới những điều kiện sai, đó là việc họ có thái độ rất cởi mở đối với sự đồng tính luyến ái. Một chất xúc tác thường xuyên là sự tự-làm giảm giá trị của mình. Sự thất bại trong tình yêu hoặc trong công việc có thể là nguyên nhân khiến một người đàn ông trở nên quá buồn chán, đến nỗi họ cảm thấy không còn khả năng làm việc gì để có được hay nuôi dưỡng một mối quan hệ với một người đàn bà … Để có một người đàn bà, điều quan trọng là người đàn ông phải cảm thấy mình là một người đàn ông.”52 Nếu như một người đàn ông cảm thấy không hài lòng về mình hoặc cảm thấy mình không có nam tính, người này có thể tìm một mối quan hệ an toàn hơn ở nơi mà anh không phải hành động như là một người đàn ông, hoặc anh không phải chứng tỏ cái nam tính của mình. Có lẽ một tình huống tương tự cũng tồn tại trong người phụ nữ. Một sự tự ti mắc cảm sẽ góp phần làm gia tăng nguy cơ hay sự phát triển của cách cư xử đồng tính luyến ái.
Chương 21 sẽ thảo luận về sự phát triển của sự tự-đánh giá bản thân. Nhà thờ và các gia đình có thể giúp đỡ những người đồng tính xây dựng những sự tự-quan niệm thực tế và tích cực, và theo thời gian, điều này có thể góp phần vào sự ngăn chặn sự đồng tính luyến ái.
CÁC KẾT LUẬN VỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Không thể ước lượng được có bao nhiêu người, bao gồm các Cơ Đốc Nhân, đang tranh chiến với những sự thúc giục đồng tính luyến ái. Vì e ngại bị khước từ hoặc bị hiểu nhầm, nên những người này miễn cưỡng chấp nhận những xu hướng đồng tính của họ. Họ thường tranh chiến một mình, vật lộn với khó khăn, với lầm lỗi hoặc với sự tự-định tội, và tìm ra những sự hợp lý hóa có thể giải thích hoặc tự tha thứ cho những suy nghĩ và những hành động tình dục của họ. Những người như thế có thể được giúp đỡ và Nhà thờ có thể là nơi tốt nhất để giúp đỡ cho họ. Một người cố vấn nhạy bén cần cố gắng hiểu về sự đồng tính luyến ái, vì sự tư vấn với những người có tình dục đồng giới là không khó khăn nhiều hơn so với những loại tư vấn khác. Điều này liên quan tới “một sự ứng dụng năng quyền của Phúc-âm để chữa lành và biến đổi cuộc sống những người của Đức Chúa Trời trong một môi trường tư vấn.”53
Vào thời điểm này của lịch sử, đã có sự quan tâm trải rộng trong những người đồng tính luyến ái và thái độ cởi mở hơn về sự đồng tính. Điều này có lẽ chẳng bao xảy ra trước đó, vì thế đây là một cơ hội đối với các thành viên Nhà thờ và những cố vấn Cơ Đốc để có một ảnh hưởng lớn đến việc tư vấn và sự ngăn chặn đồng tính luyến ái.
Christian Counseling – Gary R Collins
Kinh Thánh nói về ĐTLA
Trả lời: Kinh Thánh trước sau như một nói với chúng ta hành động đồng tính luyến ái là tội (Sáng thế ký 19:1-13; Lê-vi-ký 18:22; Rô-ma 1:26-27; I Cô-rinh-tô 6:9). Rô-ma 1:26-27 dạy chúng ta cách cụ thể đồng tính luyến ái là hậu quả của sự từ chối và bất tuân mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Khi một người tiếp tục ở trong tội lỗi và không tin, Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Đức Chúa Trời phó họ càng hơn cho tội lỗi gian ác và sa đọa để chỉ cho họ sự phù phiếm và đời sống vô hi vọng phân rẻ họ với Đức Chúa Trời. I Cô-rinh-tô 6:9-10 công bố rằng kẻ phạm tội đồng tính luyến ái không được thừa hưởng nước Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời không tạo ra sự ham muốn đồng tính luyến ái cho con người. Kinh Thánh nói với chúng ta con người trở thành đồng tính luyến ái bởi vì tội lỗi (Rô-ma 1:24-27) cuối cùng bởi vì sự chọn lựa của chính họ. Một người có thể sinh ra với sự nhạy cảm mạnh với đồng tính luyến ái giống như một người sinh ra có khuynh hướng bạo lực và những tội lỗi khác. Điều đó không phải là lý do để họ chọn lựa tội lỗi và cho rằng vì cớ sự ham muốn tội lỗi vào trong họ. Nếu một người sinh ra với một sự xúc cảm lớn về tính nóng giận hoặc đam mê có phải được quyền thực hiện những ước muốn của mình không? Dĩ nhiên là không! Đối với đồng tính luyến ái cũng giống như vậy.
Tuy nhiên Kinh Thánh không mô tả đồng tính luyến ái như là một tội lớn hơn các tội khác. Tất cả những tội lỗi là phản nghịch với Đức Chúa Trời. Đồng tính luyến ái chỉ là một trong nhiều điều được liệt kê trong I Cô-rinh-tô 6:9-10 làm cho con người xa cách với nước Đức Chúa Trời. Theo lời Kinh Thánh sự tha thứ của Đức Chúa Trời dành cho người đồng tính luyến ái cũng giống như cho người ngoại tình, kẻ thờ hình tượng, kẻ giết người, trộm cắp.v.v…Đức Chúa Trời hứa ban sức mạnh chiến thắng tội lỗi cho tất cả những ai tin nhận Chúa Giê Xu Christ làm Cứu Chúa của mình, kể cả người đồng tính luyến ái. ( I Cô-rinh-tô 6:11; II Cô-rinh-tô 5:17).
Rev. Dr. Lê Thành Tuấn
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Lovelace, Richard F. Homosexuality and the Church. Old Tappan, N.J.: Revell,1978.*
Moberly, Elizabeth R. Homosexuality: A New Christian Ethic. Greenwood, S.C.: Attic Press,1983.
Tripp, C.A. The Homosexual Matrix. New York: Signet,1975.
White, John. Eros Defiled: The Christian and Sexual Sin. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1977.*
Wilson, Earl. Counseling and Homosexuality. Waco, Tex.: Word,1988.*
Zimbelman, Ernie. Human Sexuality and Evangelical Christians. Lanham, Md.: University Press of America,1985.
Homosexuality
NGƯỜI TA SẼ CÓ CẢM GIÁC THẾ NÀO KHI BỊ ĐỒNG TÌNH LUYẾN ÁI VÀ ĐANG PHẢI TRANH CHIẾN VỚI NÓ? Một sinh viên đã thuật lại điều này về những kinh nghiệm của mình:
“Tôi chẳng bao giờ nghĩ (hay quyết định) là mình có sức hấp dẫn đối với đàn ông hơn là hấp dẫn phụ nữ. Nếu như tôi đã có cơ hội lựa chọn, chắc chắn tôi không thể lựa chọn để trở nên loại người mà tất cả những đứa trẻ khác xem tôi như là một người bất bình thường. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn vô dụng khi những sự thúc giục tình dục của tôi hướng đến những đứa con trai chứ không phải là những cô con gái. Tôi đã có những sự tưởng tượng về đàn ông thường xuyên. Tôi có thể nhớ là mình đã thủ dâm lần đầu tiên khi tôi tám tuổi, nhưng những sự tưởng tượng của tôi lúc đó không phải là tình dục cách đặc biệt. Tôi nhớ lúc đó khi tôi ở tuổi dậy thì, cũng chính là lúc những sự tưởng tượng tình dục bắt đầu. Tôi đã thủ dâm hầu như mỗi ngày, thỉnh thoảng nhiều hơn một lần mỗi ngày. Mỗi lúc tôi nghĩ nhiều về những đứa con trai khác, hơn là những đứa con gái. Khi tôi cố gắng suy nghĩ về những đứa con gái trong lúc thủ dâm, tôi không thể nghĩ đến được.”
“Tôi tìm cách giải quyết sự phát hiện này (thủ dâm) một mình. Tôi chẳng bao giờ nói với bất kỳ ai về ‘chuyện tình dục’ của mình. Tôi đã quá e ngại sẽ bị mọi người khước từ. Tôi nhớ một kinh nghiệm bị từ chối khi tôi học lớp bảy, khi tất cả những đứa trẻ khác gọi tôi là ‘bó củi’, hay ‘điếu thuốc lá’, và ‘đồng tính luyến ái’. Tất nhiên, không một ai biết về tôi lúc đó thế nào; tôi không thể chịu đựng được suy nghĩ là chúng có thể sẽ phản ứng ra sao nếu như chúng thật sự biết về tôi, hoặc biết về điều mà tôi đang phải chịu. Trải qua trường trung học và hầu hết trường đại học, tôi đã giữ im lặng, và nỗi đau của tôi – chính tôi chịu.”
“Khi tôi lên đại học, tôi đã yêu một thằng con trai khác. Nhưng thằng con trai này không đồng tính luyến ái như tôi. Và tôi phải chịu giữ sự bí mật của tôi với anh ấy. Chúng tôi là những người bạn cùng phòng trong ba năm, và anh ấy chẳng bao giờ biết về tôi cho tới chỉ trước khi chúng tôi tốt nghiệp. Điều khó cho tôi trong tình huống này xảy ra với sự đau đớn kinh khủng đó là anh ấy không thể yêu tôi, một sự thật phũ phàng đối với tôi, đồng thời cũng là sự nhận ra của anh ấy, anh ấy xem tôi như là một gã đồng tình luyến ái và đang lèo lái chuyện tình dục nhiều hơn. Tôi đã cảm thấy như mình đang lầm đường lạc lối trong những hố sâu mà tôi đang ở trong đó.”
“Tôi đã là một Cơ Đốc Nhân từ khi tôi bảy tuổi và tôi đã nhiều lần cầu xin Đức Chúa Trời cất căn ‘bệnh’ đồng tình luyến ái trong tôi đi. Ngài chẳng bao giờ nhậm lời cầu xin của tôi, Ngài đã không cất tính đồng tính luyến ái của tôi đi. Nhưng nó lại trở nên mạnh mẽ hơn, phát triển hơn mỗi ngày. Thật là khó để cam chịu sự thật này – Kinh Thánh nói rằng đồng tính luyến ái là sai – sai vì sự hấp dẫn mạnh mẽ về tình dục và cảm xúc của tôi đối với đàn ông. Đó là lúc tôi bắt đầu thử nghiệm một ít với gã đồng tính luyến ái khác trong thành phố. Tôi đi đến các tiệm sách cho giới đồng tính luyến ái và tôi có những cú điện thoại nóng với mấy gã đồng tính luyến ái khác. Có quá nhiều triển vọng hay hứa hẹn của sự mãn nguyện và sự trọn vẹn tình dục tại những nơi này. Tôi bắt đầu chuyển sang một cuộc sống có hai người. Tôi đã từng đem những gì mà tôi học được trong Kinh Thánh nói cho các bạn trong trường, và tôi liên quan nhiều tới việc truyền giáo tại trường; nhưng mỗi lần tôi làm việc, tôi lại đi đến tiệm sách dành cho những người đồng tính ở dưới phố. Tôi luôn luôn cảm thấy có lỗi và ghe tởm khi tôi đến đó, nhưng tôi không thể dừng lại được, tôi lại tiếp tục đến đó nữa. Triển vọng của sự trọn vẹn tình dục là quá mạnh mẽ đối với tôi!”
“Cuối cùng, tôi đã kể với một người về những sự tranh chiến trong tôi. Cô ấy đã rất hiểu và đã không khước từ tôi. Sau một thời gian, ngay cả tôi có thể kể cho người bạn cùng phòng của tôi biết. Điều này đã không làm tôi dừng lại, tôi vẫn tiếp tục đi đến các tiệm sách ấy; nhưng dù gì thì đây cũng là bước đầu tiên trong tiến trình chữa lành cho tôi. Tôi không thể giải quyết điều này một mình được.”
“Từ lúc đó, Đức Chúa Trời đã đặt trong cuộc đời tôi vài người tuyệt vời, họ là những người đã giúp đỡ tôi, khích lệ tôi đừng sa ngã vào sự cám dỗ đó nữa. Một vài người trong những người bạn này của tôi cũng đã từng tranh chiến với sự cám dỗ đồng tính luyến ái, nhưng chúng tôi tin cậy nơi sự chiến thắng của Đấng Christ trên tội lỗi, sẽ đem lại năng quyền trên tội đồng tính luyến ái. Nan đề của tôi đã lấy đi vài người có lòng thương xót và quan tâm chăm sóc đến tôi, khi họ nghe về những sự tranh chiến trong tôi, và điều đó giúp tôi hiểu về họ. Tôi không biết đến khi nào hoặc nếu như sự cám dỗ từng ràng buộc tôi trong những hành động đồng tính luyến ái sẽ mất đi, nhưng tôi không còn chịu gánh nặng về niềm tin cho là tôi đã mất hết hy vọng và không có năng quyền trên những sự cám dỗ này nữa. Sự nhận biết của tôi là ở nơi Đấng Christ, không phải ở trong những sự cám dỗ của tôi.”
Cách đây vài thập niên, vấn đề đồng tính luyến ái hiếm khi được đề cập đến trong xã hội (đặc biệt là trong giới học thức). Mọi người xem nó như là thứ gì đó tội lỗi, bệnh hoạn, hoặc không hợp pháp; hầu hết những người có tình dục với người khác giới đều lờ đi (kể cả các thành viên trong Nhà thờ); được những nhà tâm thần học nghiên cứu, họ là những người xem vấn đề đó như là trường hợp sai trệch về tình dục; và vấn đề này được che đậy có lẽ bởi hàng triệu người, họ muốn giữ những xu thế đồng tính luyến ái của họ khỏi trở nên phổ biến.
Sau đó, mọi thứ đã bắt đầu thay đổi. Cách đây 40 năm, nhà nghiên cứu Alfred Kinsey đã ước tính có 4% dân số người Mỹ là đồng tính luyến ái và có 37% dân số người nam tham dự ít nhất một lần hành động đồng tính luyến ái. Vào năm 1954, một cuộc nghiên cứu được sự tài trợ từ Chính phủ đã đưa ra báo cáo về vấn đề đồng tính luyến ái đã làm choáng váng nhiều người ở Anh; và trước đó nhiều năm, đồng tính luyến ái đã trở thành một chủ đề quan tâm của Chính phủ và là nguồn dữ liệu cho sự tranh cãi. Hàng vô số những người đồng tính, trước kia họ đã im lặng về thiên hướng tình dục của họ; nay thiên hướng ấy xuất hiện “gần nhất” để tuyên bố rõ về việc đồng tính luyến ái của họ; để hình thành các tổ chức của những người đồng tính; và đòi hỏi Chính phủ và truyền thống văn hóa ngưng “đàn áp” thông tin về họ. Hiệp Hội Bệnh Tâm thần Hoa Kỳ đã biểu quyết thông qua việc loại bỏ vấn đề đồng tính luyến ái khỏi danh sách những sự rối loạn trong tâm trí, và kết luận rằng đồng tính luyến ái là một sự mất trật tự chỉ khi nào nó làm phiền đến người khác một cách có chủ ý.
Với sự bùng nổ của bệnh dịch AIDS, đồng tính luyến ái là đột ngột đẩy vấn đề vào một sự nhận thức chung lớn hơn. Sự tranh luận công khai về vấn đề đồng tính luyến ái chẳng bao lâu đã xâm phạm vào mọi thành phần trong xã hội: về quân sự, những sự tuyển chọn địa phương (những sự tuyển chọn nhỏ), trong Chính phủ, các tòa án, trường học, thể thao, khoa học, các đoàn thể chuyên gia, thế giới giải trí, kinh doanh, công nghiệp, nguồn thông tin, và dĩ nhiên, cả trong Nhà thờ. Vấn đề càng trở nên nóng bỏng khi tranh luận về việc “lễ thụ chức” cho những người đồng tính tiếp tục mang chức sắc trong vài nhóm tôn giáo. Một loại các Nhà thờ dành cho những kẻ đồng tính luyến ái đã được xây dựng, và một tổ chức phát triển ảnh hưởng của những kẻ đồng tính theo đạo Cơ Đốc (Phái Phúc-âm, tin nơi Chúa Cứu-thế như đạo Tin Lành hay Báp-tít…) cũng được thành lập.2 Trong những năm gần đây, đã có một chiều hướng gia tăng các bài báo và nhiều cuốn sách về đồng tính luyến ái được viết bởi những tác giả Cơ Đốc và không-Cơ Đốc.3
Một vài Cơ Đốc Nhân vẫn cố gắng làm ngơ trước vấn đề đồng tính luyến ái. Một số người có những lời bình luận khai báo sai và thiếu tế nhị về những người đồng tính, những người khác thì đả kích, định tội và giận dữ về những người đồng tính; trong khi vẫn có những người có vẻ như có hướng làm cho họ trở nên “những kẻ đồng tính luyến ái Cơ Đốc” hợp pháp, phương cách cuộc sống mà Đức Chúa Trời-chấp thuận. Nhiều người tin Chúa, có lẽ là hầu hết, không chắc chắn về điều họ suy nghĩ.
Sự chắc chắn này thật dễ hiểu. Đồng tính luyến ái không dễ định nghĩa, và các nguyên nhân của nó vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Có nhiều giả thuyết không được xác nhận nhưng cũng có nhiều giả thuyết được bàn cãi rộng rãi về những đặc tính của những người đồng tính luyến ái, và có vẻ như thật khó khăn để có được sự thay đổi, ngay cả với sự tư vấn. Các tác giả của một bài tâm lý gần đây đã viết: “Thắc mắc ở đây là sau nhiều năm nghiên cứu, chúng ta gần như vẫn duy trì thái độ tránh né trước câu hỏi tại sao một số người trở nên là những người có quan hệ tình dục với người khác giới (trường hợp bình thường), còn những người khác thì đồng tính (bất bình thường). Ngày nay chúng ta có thể coi nhẹ một vài học thuyết phổ biến lúc trước, . . . nhưng chúng ta không có phương cách đáng tin cậy nào để dự đoán trước – chắc chắn không phải từ sự hiểu biết về các mối quan hệ của bạn với cha mẹ bạn, những kinh nghiệm tình dục thời niên thiếu của bạn, v.v… và v.v… – liệu căn bản bạn có hấp dẫn được các thành viên cho việc quan hệ tình dục cá nhân của bạn hoặc quan hệ tình dục khác hay không. Nhưng trong vấn đề này, nói chung nhiều nhà nghiên cứu đều đồng ý: thiên hướng tình dục của một người có vẻ như không được lựa chọn một cách có chủ tâm, cũng như thật không dễ dàng để thay đổi.”4 Tất cả những điều này đều phức tạp, tạo ra nỗi sợ hãi trải rộng trong xã hội và nhất là trong Nhà thờ. Nhiều người có vẻ như e ngại về sức ảnh hưởng của những kẻ đồng tính và khả năng mà những thiên hướng đồng tính luyến ái có thể được phát hiện trong con người của chính mình. Ngay cả nỗi sợ hãi này cũng có một cái tên: “nỗi ám ảnh đồng tính”, nỗi sợ hãi của những kẻ đồng tính hoặc sự đồng tính luyến ái.
Bởi vì xung quanh chủ đề gây hoang mang và tạo ra sự tranh luận này, gần như chắc chắn rằng một vài nhà lãnh đạo sẽ không đồng ý với những đoạn sau. Tuy nhiên, vui lòng nhớ rằng – chương này không phải viết để ủng hộ bất kỳ học thuyết nào hoặc để kích thích một sự tranh luận (mạnh mẽ) nào. Tôi đã cố gắng thay vì tóm tắt những điều về đồng tính luyến ái, tôi đã đưa ra cách cô đọng về các chủ đề của cuộc tranh luận công khai, và cắt giảm lối nói hoa mỹ thuộc cảm xúc; vì thế, chúng ta có thể hiểu và giúp đỡ những người đồng tính có hướng tìm đến sự tư vấn của chúng ta.
Hầu hết chúng ta có lẽ sẽ đồng ý với Richard J. Foster là người đã viết:
Bởi vì chủ đề này đã gây đau thương cho quá nhiều người, từ đầu tiên cần được nói ra là từ – lòng trắc ẩn và sự chữa lành. Những người này rõ ràng là họ đồng tính trong thiên hướng của họ, họ thường cảm thấy bị hiểu nhầm, rập khuôn, bị lạm dụng, và bị khước từ. Những người này tin rằng sự đồng tính luyến ái là một sự lăng mạ rõ ràng đối với các tiêu chuẩn của Thánh Kinh, họ cảm thấy bị phản bội bởi các giáo đoàn muốn lập pháp (hợp pháp) hóa sự đồng tính luyến ái trong cuộc sống tôn giáo (trong Nhà thờ).
Có một nhóm thứ ba bị tổn thương rất nhiều bởi những xung đột tạm thời về sự đồng tính: Tôi ám chỉ đến những người chịu nỗi lo âu ghê gớm khi nhận biết xu hướng tình dục cá nhân của họ, những người này cảm thấy bị xé toạt bởi những sự thúc giục tình dục mâu thuẫn đang nung đốt họ, và họ cân nhắc xem sẽ thế nào nếu như họ ngấm ngầm che giấu sự đồng tính luyến ái của mình. Có lẽ đây là nhóm phải chịu đựng nhiều nhất. Họ như bị quăng vào một bờ biển của sự mơ hồ, bởi vì Nhà thờ đã đem lại cho họ một tiếng nói không chắn chắn. Một mặt, họ nghe những lời cáo trách mạnh mẽ về sự đồng tính luyến ái, và, mặc dù họ cảm kích trước sự quan tâm cách trung thực của Thánh Kinh, nhưng họ đã vấp phạm bởi những giọng nói trơ tráo, thiếu cảm thông, hoặc tính phô trương của những lời công bố. Mặt khác, họ nghe được sự chấp nhận nhiệt tình về sự đồng tính luyến ái, và, mặc dù họ cảm kích về lòng quan tâm trắc ẩn đối với những người chịu nhiều sức ép, nhưng họ vẫn kinh ngạc về phương cách mà Kinh Thánh rèn luyện để làm thích hợp một dáng điệu có tính bao dung hơn.
Tất cả họ đều bị ném vào vòng xoáy lộn xộn của văn hóa và quan điểm Cơ Đốc về vấn đề đồng tính luyến ái, họ cần đến lòng trắc ẩn và sự cảm thông của chúng ta.5
Được định nghĩa cách rộng rãi, đồng tính luyến ái là một sự hấp dẫn gợi tình đối với những người có quan hệ tình dục riêng tư.6 Mặc dù đồng tính luyến ái gồm có những suy nghĩ, cảm giác, những sự tưởng tượng về tình dục, những hành động không che đậy về tình dục với những người đồng-tính; thuật ngữ này thường không được áp dụng cho những người ở thời kỳ tiền thanh niên, cho những người (thường là những người trẻ tuổi) mà sự tò mò của họ hướng họ đến sự liên quan gợi tình được thử nghiệm ngắn với một người đồng tính, hoặc cho những người trong ngục tù, hoặc những môi trường đồng-tính cô đơn khác, tạm thời họ cam kết trong cách cư xử đồng tính, bởi vì những người khác-tính không sẵn sàng cho họ.
Thật là quan trọng để phân biệt giữa cách cư xử đồng tính (ít nhất là cam kết định kỳ vào những hành động kích thích tình dục với một người đồng tính khác) và thiên hướng đồng tính (cảm giác hấp dẫn tình dục hướng tới những người đồng tính). Nhiều người với một thiên hướng đồng tính chẳng bao giờ để người khác biết về sự thích thú đồng-tính này của mình, và chẳng bao giờ cam kết trong cách cư xử đồng tính với một người khác. Thỉnh thoảng những người cố vấn cũng ám chỉ đến những người đồng tính luyến ái ngấm ngầm. Những người này bị thức tỉnh tình dục bởi những người đồng-tính, nhưng những người đồng tính ngấm ngầm không thể chấp nhận chính mình có thiên hướng căn bản là đồng tính luyến ái. Không có thành phần có cá tính đồng tính (hoặc nhiều loại), và cũng không có những kiểu cách đồng tính điển hình. Những người đồng tính luyến ái có ở cả hai giới (những người đồng tính luyến ái nữ thường được gọi là những người đàn bà đồng dục nữ; không có thuật ngữ có thể so sánh với những người đàn ông). Những người đồng tính có ở mọi lứa tuổi, xuất hiện ở tất cả mọi thành phần bất kể thứ bậc chức vụ trong công việc và lãnh vực kinh tế-xã hội, sở hữu nhiều sự quan tâm khác nhau trong Nhà thờ cũng như bên ngoài (Nhà thờ), và không phải lúc nào họ cũng suy nghĩ về tình dục như những người có tình dục với người khác giới luôn suy nghĩ về tình dục. Trong khi một vài người đồng tính thích lượn lờ trong và ngoài các quán bar dành cho những người đồng tính tìm kiếm những người bạn tình (mặc dầu nỗi sợ hãi về bệnh dịch AIDS ngày càng gia tăng), thì cũng có nhiều người được tôn trọng hơn và thường cưới được các thành viên trong cộng đồng của họ. Một số người cởi mở về những thiên hướng hoặc sở thích tình dục của họ; những người khác vẫn giữ kín sự đồng tính luyến ái của họ. Trong khi nhiều người cảm thấy cô đơn và không chắc chắn, thì cũng không thể ví những người đồng tính luyến ái như là một nhóm bị “rối loạn trí não”, vô dụng trong xã hội, hoặc thậm chí cho rằng họ cô đơn hơn những người có tình dục với người khác giới. Sự thật, ngay cả chúng ta cũng không thể giả sử rằng con người có thể được chia ra thành hai nhóm: người đồng tính luyến ái và người không-đồng tính (người có tình dục với người khác giới). Trong báo cáo của mình, Kinsey đề nghị – một cán cân với bảy điểm, trong đó điểm ze-rô chỉ về một người có tình dục với người khác giới quá mức, số ba là điểm giữa, và sáu điểm còn lại chỉ về một người với những thiên hướng và những hành động đồng tính quá mức. Các nhà nghiên cứu với Kinsey đã kết luận rằng, một số người nằm ở điểm ze-rô, và những vị trí ở điểm-sáu trên cán cân.
Để giúp đỡ những người đồng tính luyến ái, trước hết chúng ta phải từ bỏ chính mình đối với những quan niệm rập khuôn gây tổn hại và những suy nghĩ sai lầm, quá thường bị áp đặt vào một nhóm những người thường trải qua khi không có sự lựa chọn cho chính mình, nhưng nhận thấy chính mình hấp dẫn những người khác đồng tính.
KINH THÁNH VÀ VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Như đã nói ở trên, Kinh Thánh nói rất ít về vấn đề đồng tính luyến ái. Nó được đề cập chỉ trong khoảng bảy đoạn, và trong mỗi trường hợp, sự ám chỉ liên quan tới hết sức ngắn gọn.7 Rõ ràng vấn đề đồng tính luyến ái chẳng bao giờ được chấp thuận, nhưng cũng không bị bỏ qua với các tội lỗi khác tồi tệ hơn nó.
Trong một nổ lực để phân loại những sự dạy dỗ trong Kinh Thánh về đồng tính luyến ái, một số học giả Cơ Đốc đã viết ra những cuốn sách và những bài báo; thỉnh thoảng đưa ra những kết luận gây tranh cãi.8 Đôi khi có vẻ như nhiều học giả bắt đầu với một ý kiến về đồng tính luyến ái và sau đó diễn giải Thánh Kinh theo một cách chủ quan nhằm ủng hộ cho ý kiến của họ. Chẳng hạn như, một số người đã sử dụng Kinh Thánh để ủng hộ cho quan điểm: sự định tội có ảnh hưởng sâu rộng đối với những người đồng tính,9 trong khi những người khác thì tìm cách giải thích tách rời khỏi những sự ám chỉ tội lỗi của sự đồng tính luyến ái, và kết luận rằng đây là một điều kiện đến từ Đức Chúa Trời.10
Trong Cựu Ước, cách cư xử đồng tính luyến ái bị lên án hay định tội, nhưng một số người tranh cãi rằng sự dạy dỗ này là một phần trong luật pháp đã được đặt sang một bên khi Đấng Christ đã đến thế gian, chịu chết thay cho tội lỗi của chúng ta. Tuy nhiên, trong khi Tân Ước, có ba sự ám chỉ về sự đồng tính luyến ái, và hai trong số ba trường hợp đó đã dùng từ Hy-Lạp, có nghĩa là “sự giao hợp với những người nam khác.”11 Cách cư xử đồng tính luyến ái cũng bị định tội trong những phân đoạn Kinh Thánh này, cùng với việc thờ hình tượng, ăn trộm, nói dối, giết người, và các tội khác.
Ro 1:26-27 diễn dạt rõ ràng và đầy đủ hơn về những sự dạy dỗ của Thánh Kinh về vấn đề đồng tính luyến ái. Một số người duy trì quan điểm cho rằng phân đoạn Kinh Thánh này chỉ định tội những người trước đây có tình dục với người khác giới, họ là những người có hướng chuyển thành những người đồng tính; nhưng sự diễn giải này có hai giả định gây tranh cãi nhiều: (a) họ là những người hấp dẫn hay quyến rũ những người đồng tính bằng sự lựa chọn có chủ ý, và (b) những câu Kinh Thánh không áp dụng đối với những người đồng tính luyến ái suốt đời. Những người khác thì cho rằng, sự quan tâm của người viết sách Rô-ma đoạn 1 không phải về sự đồng tính luyến ái, nhưng về sự thờ hình tượng. Rõ ràng là phân đoạn này định tội những người thờ điều gì đó ngoài Đức Chúa Trời, nhưng Phao-lô không cố gắng để nói ở đây – chỉ sự đồng tính luyến ái giống như sự thờ hình tượng là sai. Thay vì ông nói, khi người ta không quan tâm đến Đức Chúa Trời, ông đặt họ vào trong tất cả mọi loại tình huống tội lỗi, bao gồm đồng tính luyến ái công khai.
Bất kỳ khi nào đồng tính luyến ái được đề cập đến trong Kinh Thánh đều đề cập đến một cách tiêu cực. Vì vậy, điều này có vẻ như rất rõ ràng, những hành động khiêu dâm đồng tính là sai. Nếu như đồng tính luyến ái công khai là tội lỗi, thì những suy nghĩ và cảm giác về đồng tính luyến ái là gì? Điều gì có thể được nói về những người này – là những người có những tưởng tượng và xung lực tình dục căn bản thuộc đồng tính, nhưng chúng bị che giấu rất kỹ lưỡng chăng? Điều gì có thể được kết luận về những người – bao gồm các Cơ Đốc Nhân – sống cuộc sống bình thường, là những người có những cuộc hôn nhân vui thỏa với người khác giới; nhưng họ cũng là những người bị làm phiền bởi những thiên hướng đồng tính đang tái diễn làm đe dọa tính chất nam tính hoặc nữ tính của họ, và một lúc nào đó có thể họ cũng sẽ trượt vào và trở nên rõ ràng đối với những người khác?
Để có những thiên hướng, những suy nghĩ, và những khát khao đồng tính luyến ái, không có một chỗ nào trong Kinh Thánh định tội về điều đó; nhưng khi một người sống trong những suy nghĩ như thế và tiếp tục cam kết trong sự tưởng tượng tình dục – đồng-tính hoặc khác-tính – khi đó, những suy nghĩ như thế sẽ trở nên những thèm khát nhục dục, và nhục dục rõ ràng là tội lỗi. Cơ Đốc Nhân có thể sa vào sự cám dỗ; ngay cả Chúa Jêsus (thầy tế-lễ) cũng bị thử-thách trong mọi việc (giống như chúng ta), song Ngài chẳng phạm tội;12 dù vậy Kinh Thánh đã đưa ra một phân đoạn về sự hy vọng. Kinh Thánh khẳng định, chúng ta có thể né tránh việc sống trong những suy nghĩ nhục dục hoặc có thể sa vào những sự cám dỗ tội lỗi dưới mọi hình thức, bao gồm những cám dỗ về sự đồng tính luyến ái.13
CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Mặc dù có thể đã có hàng ngàn cuộc nghiên cứu khoa học, dường như tất cả đều có một kết luận có vẻ như rất rõ ràng: Chắc chắn không có một nguyên nhân duy nhất nào được xác định về đồng tính luyến ái. Một số nhà nghiên cứu nổi tiếng đã điều tra: liệu thiên hướng tình dục và cách cư xử đồng tính luyến ái có phải là kết quả trực tiếp của sự di truyền, hay là do từ những ảnh hưởng sinh học khác. Một vài người đã kết luận rằng “bằng chứng khoa học ủng hộ quan điểm – những biến số của chất hoocmôn và thần kinh học đang điều khiển trong suốt thời gian mang thai, là những yếu tố quyết định quan trọng của thiên hướng tình dục.” 14 Tuy nhiên, những người khác lại kết luận, “các chất hóc-môn trước khi sinh không quyết định cách chắc chắn thiên hướng tình dục.”15 Ngay cả các nhà nghiên cứu về y khoa và sinh học cũng có cùng một kết luận, “xã hội hóa sơ sinh” dường như có ảnh hưởng đến chiều hướng tình dục nhiều hơn.16 Được nói đến bằng các thuật ngữ ít kỹ thuật hơn, nhưng không có bằng chứng cụ thể nào ủng hộ quan điểm cho rằng đồng tính luyến ái chỉ có một nguyên nhân vật lý hoặc sinh học.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng đồng tính luyến ái “chẳng còn được lựa chọn nữa bèn như là một ngôn ngữ bẩm sinh.” Theo như các điều tra, thiên hướng tình dục nên được xem xét dưới ba thuật ngữ: bản chất (tự nhiên), giai đoạn chỉ trích, và dưỡng dục. Sự quan tâm đến bản chất của một người, có thể là do một vài ảnh hưởng của chất hóc-môn bẩm sinh mà chúng có sức chịu đựng thiên hướng tình dục sau đó. Tại những giai đoạn chỉ trích trong cuộc sống, đặc biệt là trong thời đầu của tuổi thiếu nhi, những kinh nghiệm sẽ ảnh hưởng đến những xu hướng tình dục của người ấy sau này. Lúc đó, thiên hướng và cách cư xử tình dục sẽ bị ảnh hưởng bởi bản chất, do tác động xảy ra từ môi trường xã hội và tại gia đình của người ấy. Nếu nói về điều gì đó bằng ngôn ngữ chuyên môn, thì việc quan hệ tình dục với người khác giới, đồng tính luyến ái, và “người ái nam ái nữ, tất cả đều có những nguyên nhân trước và sau khi sinh, những nguyên nhân này tương tác trong suốt các giai đoạn chỉ trích của sự phát triển để tạo ra tình trạng kéo dài hoặc thậm chí khiêu dâm tình dục (sexuoerotic) bất di bất dịch.”17
Lúc này, chúng ta bị bỏ lại với kết luận, đồng tính luyến ái có thể xuất hiện bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Nguồn dữ liệu không đi đến kết luận cụ thể nào, nói rằng những ảnh hưởng sinh học và việc mổ trước khi sinh có thể đóng vai trò nào đó trong sự phát triển thiên hướng tình dục sau này; nhưng ngay cả điều đó cũng có bằng chứng lớn hơn cho thấy những chiều hướng và những cách cư xử đồng tính luyến ái được quyết định bởi sự phát triển tâm lý và việc học hỏi từ xã hội. Một vài học thuyết miêu tả đồng tính luyến ái được hình thành như thế nào:
1. Các mối quan hệ cha mẹ con cái. Các học thuyết thuộc lãnh vực phân tâm học đã được chấp nhận cách rộng rãi và được nghiên cứu một cách mạnh mẽ.18 Đặt nền tảng trên quan điểm của Freud, đồng tính luyến ái được sản sinh bởi sự phát triển tình dục bị ngăn chặn, các học giả về phân tâm học kết luận rằng: những người đàn ông đồng tính thường hình thành từ trong gia đình của họ; thường những người này có một người cha yếu đuối, thụ động, thiếu hiệu quả và một người mẹ độc đoán. Người mẹ này “khôn khéo” dạy dỗ đứa con trai của bà trở nên thụ động và chuyên dụng đối với bà. Đứa con trai này không có kiểu mẫu (tấm gương, dẫn chứng) về đàn ông có tính cách mạnh mẽ để noi theo, và chẳng bao lâu nó phát hiện ra nó có ít khả năng hay tài cáng gì hơn những đứa bạn đồng trang lứa với nó khi quan hệ với những đứa con gái. Và kết quả là, đứa con trai này mất đi sự tự tin về tính chất nam tính của mình và kinh sợ với suy nghĩ về sự thân mật với con gái. Ngược lại, những đứa con gái trong những gia đình như thế thường tiếp thu từ những ông bố của chúng về sự không thân thiện và khước từ, vì thế những đứa con gái ít có cơ hội quan hệ với con trai. Chúng quan hệ với con gái tốt hơn.
Một sự kích động suy nghĩ và có lẽ là một sự thay đổi đáng tin tưởng hơn về quan điểm này đã được giới thiệu bởi một học giả Cơ Đốc, là Elizabeth R. Moberly. Nghiên cứu của cô nói rằng: đồng tính luyến ái xuất hiện không phải từ các vấn đề trong mối quan hệ với cha hay mẹ khác-giới, nhưng bởi vì một khuyết điểm trong quan hệ với cha hay mẹ đồng-giới. Moberly viết, trong sự phát triển bình thường, cần “tình yêu, sự phụ thuộc, và sự nhận biết, cha hay mẹ đồng giới cũng như vậy, sự tiếp xúc của đứa trẻ với người cha hay người mẹ (đều phải xảy ra).” Nếu như quan hệ này thiếu đi hoặc bị ngăn chặn, cá thể sẽ vô thức cố gắng phục hồi sự tiếp xúc ấy. Cá thể này là người trở nên đồng tính luyến ái – có một nhu cầu làm mới đối với “sự thiếu hụt trước kia trong mối quan hệ cha mẹ-con cái. Nhu cầu tồn đọng đối với tình yêu thương từ những người trực hệ đồng giới, và có tương quan với nhau, nhu cầu chưa có trước đây đối với tình yêu thương từ người cha hay người mẹ đồng giới.”19 Một phương cách để sữa chữa lại sự thiếu hụt này, để hoàn tất những nhu cầu chưa đạt được trước kia, và để đối xử thành công với những người đồng tính luyến ái, là xây dựng một “mối quan hệ không-tình dục tốt đẹp với một thành viên đồng giới.”20 Cũng theo quan điểm này, những người đồng tính luyến ái sẽ được giúp đỡ tốt nhất bởi những người cố vấn đồng giới, biết chăm sóc, và là những người có tình dục với người khác giới.
Trong khi nhiều người đồng tính luyến ái kinh nghiệm được những sự phá vỡ từ các mối quan hệ cha mẹ-con cái, những người khác thì không. Trẻ em trong cùng một gia đình, không phải tất cả đều trở nên đồng tính, mặc dầu rất có thể họ đều có các mối quan hệ cha mẹ-con cái tương tự.21 Điều này khiến một vài người cố vấn tìm những cách giải thích khác về sự đồng tính luyến ái.
2. Các mối quan hệ khác trong gia đình. Đồng tính luyến ái có được kết quả khi:22
• Các bà mẹ không tin cậy, hoặc sợ hãi đàn bà và dạy dỗ điều này cho những đứa con trai của họ.
• Các bà mẹ không tin cậy, hoặc sợ hãi đàn ông và dạy điều này cho những đứa con gái của họ.
• Đứa con trai được bao quanh bởi quá nhiều người giới nữ (mẹ, chị-em gái, bà, cháu gái, cô, dì, thím, bác gái, bạn gái), nhưng cậu lại có giới hạn trong việc tiếp xúc với những người lớn giới nam; vì thế, cậu học suy nghĩ và hành động như một đứa con gái.
• Các bậc cha mẹ là những người mong muốn có được đứa con gái, nhưng thay vì thế họ lại có một đứa con trai, họ nuôi dưỡng nó một cách dịu dàng; vì thế, có thể nó suy nghĩ và hành động như một đứa con gái (một tình huống tương tự xảy ra khi cha mẹ muốn có một đứa con trai, nhưng họ lại có một đứa con gái); trong cả hai trường hợp, đứa trẻ đều có sự bối rối lớn về sự nhận biết và thiên hướng tình dục của nó.
• Đứa con trai bị khước từ hoặc bị làm ngơ bởi người cha của nó, và vì lý do này, nó cảm thấy mình không xứng đáng hay không thích hợp khi là một đứa con trai, và nó sẽ không chắc về việc làm thế nào để những đứa con trai có thể quan hệ với những đứa con gái.
• Đứa con gái bị người mẹ từ chối hoặc bị làm ngơ, và từ lúc đó, nó cảm thấy mình không thích hợp khi là một đứa con gái, nó không chắc làm thế nào mà những đứa con gái có thể quan hệ với những đứa con trai, và chính nó cũng không thể quan hệ tốt được với những đứa con trai.
• Cả bố mẹ đều e ngại về tình dục, không vui lòng thảo luận đề tài này tại nhà, hoặc họ mạnh mẽ trong sự định tội về tình dục của họ; trong mọi cách, đứa trẻ sẽ có một quan điểm phóng đại về tình dục, và như là một kết quả nghiên cứu, những sự tranh chiến của nó với sự điều chỉnh về vấn đề quan hệ tình dục với người khác giới.
• Người mẹ (hoặc người bố) quá nuông chìu đứa trẻ đến nỗi nó tiếp xúc không dè dặt với cha hay mẹ nó, nó không thể dứt khỏi họ, và nó bị thuyết phục rằng không có người nào khác có thể so sánh với người cha hay người mẹ khác-giới của nó.
Một danh sách như trên có thể còn tiếp tục, có lẽ trong vài trang nữa, nhưng đủ để nói và thể hiện cho thấy những căn nguyên của đồng tính luyến ái có thể là phức tạp và thường gắn sâu trong bối cảnh gia đình.
Trong bất cứ một xã hội nào, một đứa trẻ học tập những điều - có nghĩa là - để trở thành người nam hoặc người nữ. Nếu như không có cơ hội học tập những vai trò của người nam hoặc người nữ lành mạnh, hoặc nếu như xã hội (như xã hội của chúng ta) đã định nghĩa những vai trò này một cách mơ hồ; có thể vì thế mà cách cư xử và những thái độ của đứa trẻ trở nên bị phóng đại. Những đứa trẻ như thế khi lớn lên đến tuổi trưởng thành, chúng không biết điều mà chúng nên trông đợi là gì, hoặc chúng nên phản ứng thế nào đối với những người khác giới. Thỉnh thoảng, bạn cần thoải mái hơn để biết phải đối xử thế nào với những người đồng tính luyến ái, đặc biệt là nếu như người đó đã bắt đầu có cảm giác với người đồng-giới.
3. Những kinh nghiệm ban đầu. Điều gì xảy ra cho một cậu con trai khi các bộ phận sinh dục của nó bị kích thích bởi một người đàn ông? Có thể là không chính xác và đơn giản để kết luận rằng, đồng tính luyến ái chỉ xảy ra bởi vì những kinh nghiệm tình dục ban đầu. Cũng vì vậy, những kinh nghiệm này có thể có một sự ảnh hưởng rất lớn đến thiên hướng tình dục ở người lớn.
Chẳng hạn như, một báo cáo đã nói rằng, đồng tính luyến ái có thể được hình thành trong ba giai đoạn. Giai đoạn một, giai đoạn tự kỷ trung tâm, xuất hiện khi một đứa trẻ hoặc một thanh niên trẻ tuổi gặp trở ngại khi quan hệ với những đứa bạn đồng trang lứa đồng-tính, nó cảm thấy không thích hợp và khác biệt (có lẽ bởi vì người thanh niên trẻ này thiếu kỹ năng thể lực hoặc những kỹ năng khác mà những người đồng trang lứa có), và/ hoặc có những kinh nghiệm thích thú hay sự thức tỉnh gợi tình với một người đồng giới. Thỉnh thoảng trẻ em cảm thấy quá không thích hợp hoặc không thoải mái với sự nhận biết tình dục của chúng, đến nỗi chúng muốn trở nên là các thành viên của “hội” những người khác giới. Hầu hết những đứa trẻ này trở nên đồng tính như những người lớn đồng tính.23
Giai đoạn hai, giai đoạn xã hội-trung tâm, người ta bắt đầu cảm giác một thiên hướng đồng-tính. Thường có những cố gắng do chính mình từ chối điều này và nổ lực che đậy nó khỏi những người khác. Nhiều người tranh chiến với giai đoạn này trong toàn bộ cuộc sống của họ.
Một vài người bước sang giai đoạn ba, giai đoạn ba là giai đoạn phổ biến, là giai đoạn nơi mà người ta chấp nhận sự đồng tính luyến ái của họ, chính mình họ chấp nhận và được những người khác chấp nhận, mặc cho những hậu quả có thế nào đi nữa.24
4. Sợ hãi.
Vì các nguyên nhân khác nhau, một số người e ngại việc quan hệ tình dục khác giới. Những nỗi sợ hãi như vậy kéo dài có thể bắt nguồn từ việc thiếu sự tiếp xúc thường xuyên với những người khác giới, sự khước từ bởi những người khác giới này, hoặc từ những kinh nghiệm bị tổn thương và bối rối với một người nào đó khác giới. Một số người nói rằng các nhóm tôn giáo hoặc các trường học dành riêng cho những người đồng-giới, làm tăng sự đồng tính luyến ái một cách tình cờ. Khi sự tiếp xúc với những người có tình dục khác giới bị ngăn chặn, thì sự đồng tính luyến ái trở nên một sự thay thế ít đe dọa hơn.
Đối với một số người, nỗi sợ hãi về vấn đề quan hệ tình dục với người khác giới đi kèm với nỗi sợ hãi hoặc sự tụt hậu xung quanh những người đồng giới. Nếu như một người hấp dẫn những người đồng-giới, có thể có các nỗi sợ hãi bị khước từ, hoặc không chắc chắn về việc phản ứng cách bình thường ra sao, hay vì sợ rằng những sự không đảm bảo, những sự thúc giục đồng tính luyến ái của người đó bị khám phá.25
5. Sự lựa chọn có chủ tâm về đồng tính luyến ái.
Một số cuốn sách phổ biến cho rằng, những kết quả đồng tính luyến ái là một sự lựa chọn đã được cân nhắc kỹ, nhưng các giáo sư kinh nghiệm và hầu hết những người có một thiên hướng đồng tính luyến ái đều không tán thành quan điểm này. Sự hấp dẫn tình dục đối với các thành viên của những người có cùng giới tính là rất hiếm, nếu như nó từng xảy ra như là một sự quyết định có chủ tâm và có ý thức. Thỉnh thoảng trong cuộc sống của họ, hầu hết những người đồng tính luyến ái bắt đầu nhận ra rằng, điều đó không bởi sự lựa chọn được cân nhắc kỹ của riêng họ, nhưng một cách cơ bản là họ bị hấp dẫn bởi những người đồng giới. Một sự nhận biết như thế có thể là quá rắc rối đến nỗi nhiều người cố gắng che giấu nó, thậm chí họ che giấu cả chính mình. Những người này thường kết luận rằng mình đã được sinh ra như là một người đồng tính luyến ái, điều này đã được quyết định trước về di truyền; mặc dầu thế, như chúng ta biết, kết luận này không có bằng chứng hay kết quả nghiên cứu nào xác nhận.
Những xu hướng đồng tính luyến ái có được thường hình thành trước khi một người nhận ra điều đang xảy ra. Phần lớn chỉ như là một người có tình dục với người khác giới, người này bị hấp dẫn bởi những người khác giới; vì thế, một người bị đồng tính luyến ái đã học được sự hấp dẫn từ những người đồng giới. Những sự hấp dẫn này là không sai. Theo như Kinh Thánh, điều sai ở đây là sự quyết định có chủ tâm để cam kết vào những hành động đồng tính luyến ái.
Bất cứ lúc nào, khi một người kinh nghiệm được sự vui thích từ các hoạt động tình dục với một người đồng giới hoặc khác giới, các hoạt động tình dục trở nên hấp dẫn hơn trong lần khác. Cách cư xử ban đầu bắt đầu thế nào, không có vấn đề gì cả; đó như là kết quả của sự dụ dỗ từ một người khác, như là một sự thể hiện sự tò mò, hoặc như là một nổ lực để làm giảm sự căng thẳng trong khi người đó ở trong quân đội hoặc ở trong tù.26
Điều quan trọng hơn là liệu các hoạt động tình dục như vậy có tiếp tục hay không. Theo như một học giả trước đây đã nói, “những người đồng tính luyến ái kéo dài có hướng được thành lập bởi những thực tế đồng tính luyến ái đang tái diễn; bắt đầu ngay trước thời thanh niên và tiếp tục sau đó, đặc biệt là nếu như người đồng tính luyến ái – liệu đó chỉ là tạm thời, hoặc một người lớn được người trẻ tuổi khâm phục.”27 Đối với nhiều người trẻ tuổi, sự đối đầu tình dục trôi qua, ngay cả với một người đồng-tính, đặc biệt là không thỏa mãn và dường như không được lặp lại. Vì những nền tảng và những xu thế của những người này khiến họ có thể bị tổn thương, một kinh nghiệm về tình dục có thể hướng tới một người khác, và một vòng lẩn quẩn lại bắt đầu. Những hành động đồng tính luyến ái (gồm có sự thủ dâm với những sự tưởng tượng về sự đồng tính luyến ái) làm gia tăng những xu hướng đồng tính luyến ái, lần lượt hướng tới những hành động đồng tính hơn. Dĩ nhiên, một chu kỳ tương tự có thể bắt đầu khi những người có những thiên hướng với những người có tình dục khác giới lựa chọn cam kết vào các hoạt động tình dục với những người khác giới. Theo Kinh Thánh, chu kỳ này của những người có tình dục với người khác giới là không sai trong hôn nhân; nhưng ngoài hôn nhân, sự liên quan vật lý như thế là tội lỗi.
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Những người trong phong trào đòi những quyền lợi cho những người đồng tính luyến ái (Gay Rights) nhấn mạnh về những lợi ích của sự đồng tính luyến ái, và mặc dù sự chung chạ bừa bãi phổ biến rộng rãi trong cộng đồng của những người tình dục đồng giới; nhiều cặp đồng-tính có thể sống với nhau trong một giai đoạn kéo dài của thời gian.28 Điều này cho thấy, không nên che giấu sự thật không mấy vui vẻ, là có hàng triệu người có những thiên hướng đồng tính luyến ái.29 Xu hướng đồng tính luyến ái của họ có xu thế làm mờ đục mọi lãnh vực trong cuộc sống của họ. Dĩ nhiên, nhiều người bị ảnh hưởng trong nhiều cách thống nhất khác nhau, nhưng đồng tính luyến ái thường ảnh hưởng tới bốn lãnh vực cách đặc biệt: lối sống, tự-quan niệm, các mối quan hệ cá nhân và gia đình.
1. Những ảnh hưởng về lối sống. Những báo cáo từ các nguồn thông tin thỉnh thoảng đem lại một bức tranh làm các cộng đồng của những người tình dục đồng giới và những lối sống đồng tính luyến ái khó chịu. Chẳng hạn như, một báo cáo miêu tả những cộng đồng đồng tính luyến ái là nơi có những cửa hàng phục vụ những người tình dục đồng giới, là nơi những con đường “bị chi phối bởi nhiều cặp đàn ông nắm tay, choàng vai, ôm eo nhau bước đi”, là nơi không có bóng dáng phụ nữ và trẻ em mà đáng ra họ phải có mặt, và là nơi các loại quần áo phản ánh cách ăn mặc được những người tình dục đồng giới yêu chuộng gần đây.30 Các bài báo thỉnh thoảng miêu tả việc các thầy cô giáo trong trường, hoặc những người lãnh đạo thanh niên, là những người chuyên gạ gẫm tình dục những cậu con trai và quyến rũ (cám dỗ) chúng có những hành động tình dục đồng tính. Một số khác miêu tả những quán bar dành cho những người tình dục đồng giới là nơi cả đàn ông và đàn bà đến để tìm kiếm những người đồng tính khác, họ là những người có thể chấp nhận nhau, có thể có các mối quan hệ bạn bè, và sự liên quan tình dục với nhau. Các bài báo cáo như thế miêu tả cách không nghi ngờ gì chỉ đối với thiểu số những người đồng tính luyến ái và bỏ qua một sự thật là, do nhiều người né tránh các quán bar dành cho những người tình dục đồng giới và tránh sự chung chạ tình dục, đặc biệt là bây giờ khi sự quan tâm về AIDS là quá phổ biến.31 Vì thế, các bài báo cáo từ các nguồn thông tin đã làm thức tỉnh nỗi sợ hãi và sự khiếp sợ trong tâm trí của nhiều người, gồm cả các thành viên trong Nhà thờ.
Những người cố vấn nên nhớ rằng không có lối sống đồng tính luyến ái điển hình. Sẽ là không chính xác, thiếu nhạy bén, và thiếu tế nhị nếu kết luận rằng hầu hết những người đồng tính luyến ái là những người hy vọng nơi các quán ba, là những nhà hoạt động, những người “diễu hành” trong sự yêu thích các quyền lợi của những người tình dục đồng giới, những tên gạ gẫm trẻ con, những người đàn ông có cách cư xử giống như đàn bà hay không mang tính đàn ông (trong người những người đàn ông; tính đàn ông của những đàn bà thích đồng dục nữ), không thích nghi được tâm lý,32 hoặc là những người liên tục ám ảnh tình dục. Những quan niệm rập khuôn như thế khiến các Cơ Đốc Nhân đẩy những người đồng tính luyến ái ra xa và từ chối họ, về tình yêu thương và sự chấp nhận, là những điều nên được tìm thấy trong cộng đồng Nhà thờ. Dĩ nhiên, mỗi đặc điểm trong những đặc điểm trên miêu tả về một vài người đồng tính luyến ái, sự thật cũng có nhiều người đồng tính được luật pháp chấp nhận, một số là những thành viên được chấp nhận trong cộng đồng. Một số người sống với nhau trong các mối quan hệ đồng tính không che giấu; mặc dù như chúng ta biết, có những người khác luôn tìm cách giữ kín những xu hướng đồng tính của họ và họ kiểm soát nó. Ước tính có 10% trong số những người đã trưởng thành tại Hoa Kỳ, là những người tình dục đồng giới. Nếu như điều này là thật, thì rất có thể có một số người đồng tính trong Nhà thờ, mặc dù việc nhận dạng ra họ có thể được che giấu kỹ lưỡng.
Những xu hướng đồng tính luyến ái rõ ràng có ảnh hưởng đến nhiều người, và những lối sống của họ là khác nhau (theo nhiều cách). Một số người thì cởi mở về những xu hướng hay sở thích tình dục của họ; những người khác thì che giấu (không có cơ sở nào hay dấu tích nào từ họ) những xu hướng của họ đi; nhưng sống với một nỗi sợ hãi im lặng và tồn đọng – định hướng đồng tính luyến ái – có thể lại xuất hiện một cách tình cờ và hướng tới sự mất mác bè bạn, công việc, và sự chấp nhận từ những người khác.
2. Những ảnh hưởng từ cảm xúc và tự quan niệm. Trước sự cởi mở gần đây về vấn đề đồng tính luyến ái, một số người tình dục đồng giới đã kết luận: không chỉ người tình dục đồng giới là “tốt”, nhưng “được làm” người tình dục đồng giới là “giỏi hơn” những người khác. Nhưng phổ biến hơn là cảm giác bất an và sự tự ti mặc cảm là điều thường xảy ra cho bất kỳ ai trong số đó. Lầm lỗi về những xu hướng hoặc những hành động đồng tính luyến ái, sự cô đơn, nỗi sợ hãi sự đồng tính của mình có thể bị người khác khám phá, một cảm giác mất hy vọng (thỉnh thoảng dẫn tới việc uống rượu và đôi khi là tự sát), và một cơn giận dữ ngấm ngầm; tất cả đều được thấy nơi những người đồng tính luyến ái. Những người khác thì tranh chiến với các chủ đề về sự nhận dạng này và với những câu hỏi về nó cho chính họ trong xã hội.33 Đối với nhiều người, đặc biệt là những người chưa lập gia đình, chuyện đi đến các quán bar dành cho những người tình dục đồng giới là một cố gắng tìm kiếm tình yêu và sự ủng hộ từ những người hiểu biết về nan đề này, họ có thể tìm thấy cảm giác của sự tự-cho mình là có tự tin và họ có thể xoa dịu nỗi đau bên trong của những người tình dục đồng giới.
3. Những ảnh hưởng từ mối quan hệ. Trong khi một số người đồng tính luyến ái xây dựng các mối quan hệ thân mật mang tính ủng hộ với những người khác đồng tính, các mối quan hệ này thường là tạm thời, và vì nhiều người chẳng bao giờ phát triển được các mối quan hệ như thế.34 Trong một thế giới mang giá trị “trẻ trung” (thanh niên), “nam tính”, và có những cái nhìn tốt đẹp; thật là khó để tìm kiếm sự thân mật và sự chấp nhận, nếu như một người thiếu đi những phẩm chất này. Những người đã lập gia đình giữ kín được sự đồng tính luyến ái của họ (thỉnh thoảng ngay cả với người phối ngẫu), họ có thể phát hiện ra những sở thích, những tưởng tượng tình dục của họ, hoặc các nỗi sợ hãi về việc bị từ chối có thể đặt một sức ép lên các cuộc hôn nhân của họ và ngăn chặn họ không gần gũi với những người khác, vì sợ rằng những xu hướng đang được che giấu này có thể bị bùng phát và trở nên rõ ràng. Những người này là những người cởi mở về sự đồng tính luyến ái của họ, họ có hướng không thích các mối quan hệ xã hội lâu bền, ít muốn thay đổi, và ít hoàn thành hơn là những người có tình dục với người khác giới.35
Lúc này, cần có mối quan hệ của người đó với Đức Chúa Trời. Từ khi cách cư xử đồng tính luyến ái bị xem là tội lỗi, thì sự liên quan trong hoạt động này đặt ra một rào cản giữa người đó với Đức Chúa Trời. Nhiều Cơ Đốc Nhân thất bại để phân biệt giữa cách cư xử đồng tính luyến ái (gồm sự thèm khát nhục dục, là tội lỗi) với những xu hướng và những sự khát khao đồng tính trong con người của họ – là không tội lỗi. Sự thất bại để nhận ra sự khác biệt này có thể dẫn tới những nổ lực không ngừng để quanh quẩn trong những xu hướng tình dục đồng giới của người đó. Khi điều này chứng tỏ là không có hiệu quả (là vô ích), thường có sự thất vọng, lầm lỗi, một sự yếu kém thuộc linh, hoặc đôi khi xảy ra chuyện một Nhà thờ trong các Nhà thờ “dành” cho những người tình dục đồng giới chấp nhận cách cởi mở và thậm chí còn khuyến khích sự đồng tính luyến ái.
Sau khi đọc chương này, một người đàn ông trẻ tuổi đã viết – anh cảm thấy được những người khác chấp nhận khi họ coi anh như là một người tình dục khác giới, nhưng anh cảm thấy có một rào cản đang phát triển, nếu như có bất kỳ ai phát hiện ra: anh đang tranh chiến với sự đồng tính luyến ái. Anh viết “Tôi muốn được chấp nhận như là một Cơ Đốc Nhân giống như những người khác trong Nhà thờ, ngoại trừ việc tôi đang tranh chiến với sự đồng tính luyến ái của tôi. Đôi khi tôi đắn đo – nếu như có một nơi mà ở đó một người như tôi có thể thật sự cảm thấy được chấp nhận, thì chỉ có trong các Nhà thờ dành cho những người như tôi, thay vì trong Nhà thờ thật của Đức Chúa Jêsus-Christ.”
4. Những ảnh hưởng từ gia đình. Những người đồng tính luyến ái thường hối tiếc về việc họ không có con cái,36 và những người này chỉ có thể có con cái từ một cuộc hôn nhân trước đó với người khác giới; do đó chúng ta thường thấy: các bậc cha mẹ là những người có tình dục đồng giới gặp một vài vấn đề khi làm bố mẹ. Trong những trường hợp chờ xét xử (tạm giam), tòa án hiếm khi để con cái cho cha mẹ nào đồng tính, bởi vì có nỗi sợ hãi: (1) đó là đứa con sẽ trưởng thành như là một người đồng tính, nếu như nó được nuôi dưỡng bởi một ông bố hay bà mẹ đồng tính; (2) đứa trẻ có thể bị gạ gẫm tình dục, nếu như được nuôi dưỡng trong một môi trường đồng tính tại nhà; hoặc (3) đứa trẻ sẽ bị bêu xấu bởi những đứa bạn đồng trang lứa với nó, nếu như định hướng tình dục của cha hay mẹ nó bị nhiều người biết đến. Không có chứng cớ rõ ràng nào tồn tại để ủng hộ hai nỗi sợ hãi đầu trong những nỗi sợ hãi này, và những nguồn thông tin chủ yếu ủng hộ nỗi sợ hãi thứ ba.37 Trẻ em của các bậc cha mẹ đồng tính thiếu đi tấm gương (ví dụ) về nam tính hay nữ tính từ người cha hay người mẹ của chúng tại nhà, nhưng cũng là thật đối với những đứa trẻ trưởng thành trong những gia đình chỉ có mẹ hay có cha, khi người mẹ hay người cha này là người có tình dục với người khác giới.
Việc tiếp xúc với trẻ em có thể là khó khăn cho những người đồng tính luyến ái; nhưng đối với nhiều người, càng khó khăn hơn để quan hệ với bố mẹ thật của chúng. Nhiều bậc cha mẹ chịu sức ép khi họ biết đứa con của họ là đứa đồng tính, và những nỗi sợ hãi này càng lớn hơn khi các bậc cha mẹ xem sự phổ biến của bệnh dịch AIDS là hiện trạng xảy ra rất nhiều trong số những người có tình dục đồng tính. Các bậc cha mẹ hoang mang, nhiều lầm lỗi, và sợ hãi vì thỉnh thoảng cảm thấy bị xa lánh bởi những người bạn của họ; và họ không chắc về việc nên phản ứng ra sao đối với những đứa con đồng tính của mình và những người bạn tình cũng đồng tính như chúng.38 Những đứa trẻ đồng tính lớn từ từ có thể cảm thấy lầm lỗi về nỗi đau đồng tính của chúng, nó dán chặt vào cuộc sống của bố mẹ chúng. Tất cả đều có thể gây ra sự căng thẳng tại nhà.
HUẤN THỊ NGƯỜI ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Nơi để bắt đầu việc tư vấn là với những thái độ cá nhân của bạn. Nếu như bạn e ngại những người đồng tính luyến ái, ngại phải đùa giỡn về họ, định tội họ, chấp nhận cách miễn cưỡng những quan niệm rập khuôn, hoặc không quen với sự phức tạp của sự đồng tính và các nguyên nhân của nó; lúc ấy, bạn sẽ không thể giúp đỡ hiệu quả được. Chúa Jêsus yêu thương mọi tội nhân, và những người bị cám dỗ. Chúng ta là những người tìm cách theo đuổi những bước đi của Ngài và chúng ta nên làm giống như Ngài. Nếu như chúng ta không cảm thấy động lòng trắc ẩn đối với những người đồng tính luyến ái tỏ lộ, hoặc đối với những người có những xu đồng tính, thì chúng ta phải cầu xin Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lòng thương xót mà chúng ta còn thiếu. Chúng ta phải tự xét lại những thái độ cá nhân của chúng ta đối với những người tình dục đồng giới, phải tìm cách hiểu về tính đa dạng của vấn đề đồng tính luyến ái, và nên tránh tư vấn cho những người có chiều hướng đồng tính luyến ái mà không muốn thay đổi; đồng thời nên tránh những thái độ tiêu cực của chúng ta về họ hoặc về việc chúng ta không vui vẻ để thay đổi.39
Một ý tưởng, một chuyện hoang đường – là phải thay đổi quan niệm cho rằng đồng tính luyến ái là một căn bệnh không thể chữa được. Đồng tính luyến ái không phải là một căn bệnh; nó là một xu hướng (thường có những tưởng tượng hoặc hành động gợi tình) nhưng không luôn luôn hướng đến những sự tưởng tượng thường xuyên hoặc những hành động trong cách cư xử khiêu dâm đồng giới. Qua những bằng chứng cho thấy, nếu đồng tính luyến ái cơ bản là một điều kiện cần được học tập, thì sau đó nó có thể là không cần được học tập. Nếu như cách cư xử đồng tính luyến ái là tội lỗi – như Kinh Thánh dạy – thì sự tha thứ là luôn sẵn sàng, và vì thế sự giúp đỡ thánh có thể giúp một người có chiều hướng đồng tính khỏi tội lỗi tình dục.
Sự thay đổi chẳng bao giờ là dễ dàng đối với những người đồng tính luyến ái và với những người cố vấn của họ. Tỷ lệ người được tư vấn bỏ dỡ sự tư vấn nửa chừng là rất cao, và các báo cáo đầy lạc quan từ những “cộng đồng” người có tình dục đồng giới-trước đây (những người “nhiễm” đồng tính trước) thường trở nên công khai và phấn khích hơn.40 Vì thế, sự thay đổi (ngay cả đối với những xu hướng và cách cư xử của những người có tình dục với người khác giới) là điều có thể,41 đặc biệt là khi hiện nay đã có một số thay đổi sau đây (hoặc ở trong hiện tại, hoặc tốt hơn là sau này vẫn thay đổi):
• Người được tư vấn thành thật đối diện với sự đồng tính luyến ái của mình.
• Người được tư vấn có một sự khao khát mạnh mẽ để thay đổi.
• Người được tư vấn vui vẻ không tiếp xúc với những người bạn đồng tính như mình, là những người cám dỗ người được tư vấn này vướng vào trong cách cư xử đồng tính.
• Có một sự vui vẻ để tránh dùng các loại thuốc và alcohol từ lúc những cám dỗ (thói quen) này có hướng làm tổn thương bởi sự cám dỗ của chúng.
• Người được tư vấn có thể xây dựng một mối quan hệ gần gũi, thân mật không tình dục với người cố vấn hoặc với người đồng-giới khác.
• Người được tư vấn kinh nghiệm được sự chấp nhận và tình yêu thương của nhiều người ngoài những người bạn và những sự tiếp xúc đồng tính.
• Người được tư vấn dưới 35 tuổi và/ hoặc không liên quan sâu đậm vào những sự tiếp xúc đồng tính với những người khác.
• Người được tư vấn có một sự khao khát tránh thoát tội lỗi, cam kết và phó thác cuộc sống và các vấn đề của mình lên cho Đức Chúa Jêsus điều hướng và quản trị chúng.
Những sự lưu ý ban đầu này nên được ghi nhớ và có thể được đem ra để thảo luận với người đồng tính luyến ái đang tìm sự giúp đỡ. Lúc này, người cố vấn có thể giúp đỡ với những cách sau:
1. Xác định các mục tiêu tư vấn.
Khi một người nào đó đến tìm sự giúp đỡ, điều mà người này muốn: sụ đánh giá về những xu hướng đồng tính luyến ái, sự hiểu biết về sự dạy dỗ trong Kinh Thánh đối với đồng tính luyến ái, sự giúp đỡ trong việc chấm dứt cách cư xử đồng tính, sự tiếp tục thừa nhận hoạt động đồng tính, sự giúp đỡ trong việc quan hệ tốt hơn với một bạn tình đồng tính, hoặc một điều gì khác chăng? Thỉnh thoảng người được tư vấn không thật sự có sự khao khát để thay đổi, nhưng họ vẫn tìm đến với người cố vấn vì sự thúc ép từ cha mẹ, từ người lãnh đạo Thanh niên, hoặc người phối ngẫu của họ. Giả sử rằng bạn không biết gì về điều mà người đó muốn cho tới khi bạn hỏi và thảo luận các câu trả lời của người được tư vấn.
2. Làm thấm nhuần hy vọng thực tế.
Rõ ràng, không dễ dàng gì để tư vấn những người đồng tính luyến ái. Trong khi các hành động đồng tính có thể chấm dứt và được Đức Chúa Trời tha thứ hoàn toàn, nhưng những xu hướng đồng tính vẫn là vấn để rất khó khăn để trừ tiệt. Thỉnh thoảng một người sẽ không thay đổi để chuyển sang một định hướng tình dục với người khác giới, nhưng người này có thể được giúp đỡ để sống một cuộc sống chiến thắng, đầy ý nghĩa, tự do khỏi những rào cản và hoạt động đồng tính.
Điều này có vẻ như là sự kết luận của các nhà tâm lý Cơ Đốc David Myers và Malcolm Jeeves:
Những người đồng tính luyến ái có thể có sự xung đột, phớt lờ hoặc từ chối những sự khao khát của họ, và họ có thể thành công trong việc tránh các hành động do những sự khao khát của họ; nhưng những sự khao khát như vậy hiếm khi biến mất. Nếu như họ cố gắng thay đổi xu hướng tình dục của mình qua sự nổ lực, bằng liệu pháp tâm lý, hoặc bằng sự cầu nguyện; họ có thể tìm thấy những cảm giác còn tồn đọng như những người có tình dục với người khác giới. Đây là kinh nghiệm của một số nhà thành lập ra các chương trình Cơ Đốc “dành cho những người tình dục đồng tính-trước”...
Sự chấp nhận những giới hạn dựa trên khả năng của chúng ta để đem lại sự thay đổi có thể đang được giải phóng ... Nó làm cho chúng ta hàng ngày tự do sống với lầm lỗi và sự tự trách mình về việc không thành công trong bất cứ điều gì mà chúng ta vẫn có suy nghĩ là chúng ta sẽ làm được. Cách để chính mình có được sự bình an là bạn có thể nói rằng ân điển đã đến với tôi, chỉ tôi là... Liệu những sự khao khát của tôi có phải là với người khác giới hoặc với người đồng giới...
Nhưng sẽ không có một cơn giận dữ nào nếu như chúng ta nói không? ... Thay vào đó, nếu như định hướng tình dục của một người không được chọn lựa một cách có chủ tâm thì cũng không thể thay đổi cách dễ dàng được; vẫn không có những sự lựa chọn đúng đắn về đạo đức từ bên trong năng lực của người đó? Liệu người có tình dục với người khác giới hoặc với người đồng tính, người đó có thể lựa chọn cam kết trong tình dục chung chạ bừa bãi, để lựa chọn cuộc sống không kết hôn, hoặc để dính líu vào một mối quan hệ gắn bó, yêu thương, và lâu dài không? Định hướng tình dục tự nó không tạo ra sự lựa chọn, cũng không phải là một sự xin lỗi đối với sự khai thác tình dục của bất kỳ ai.42
Mặc dầu việc thay đổi là khó khăn, nhưng vẫn có nguyên nhân để hy vọng, đặc biệt là khi người ta thành thật muốn thay đổi; nhưng bạn có thể phải luôn nhắc nhở những người được tư vấn của mình (và chính bạn) về vấn đề này. Những hành động đồng tính luyến ái tội lỗi có thể được chấm dứt nhờ sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời; những bẩm chất đồng tính thân mật có thể được thay đổi; nhưng nếu như nó không xảy ra, thì định hướng tình dục có thể vẫn sống với người đó và cuộc sống vẫn có thể được hoàn tất.
3. Chia sẻ kiến thức. Những người đồng tính luyến ái tìm đến sự tư vấn có thể tin vào một số chuyện hoang đường vĩ đại nhất trong từng vấn đề. Khi tiến trình tư vấn bắt đầu, hãy cảnh giác đối với những chuyện hoang đường này và tìm kiếm những cơ hội để thách thức những quan niệm sai và thay thế chúng bằng những thông tin chính xác về sự đồng tính và về việc quan hệ tình dục bình thường của con người. Chẳng hạn như, có thể bạn đang khuyến khích người được tư vấn biết: những người có những cảm giác đồng tính luyến ái không phải tất cả đều không có khả năng hoặc không tài giỏi gì, không phải họ đều bị bệnh về trí tuệ, hoặc không thể chữa trị được, hoặc họ đang lầm đường lạc lối, bị Đức Chúa Trời khước từ, hoặc họ không thể mang chức năng cách hiệu quả trong xã hội. Đôi khi bạn có thể sẽ chia sẻ những sự dạy dỗ trong Thánh Kinh về vấn đề đồng tính luyến ái cho họ, đặc biệt là về sự khác biệt giữa những xu hướng đồng tính và những hành động đồng tính.
4. Thể hiện tình yêu thương và sự chấp nhận đối với người khác.
Một lần kia trong một Nhà nguyện nọ, bằng sự thể hiện không chút sợ hãi nhưng tỏ ra rất sáng suốt, một sinh viên trường dòng Cơ Đốc đã nói về những xu hướng đồng tính luyến ái của mình và công việc trong giáo đoàn của anh, trước cộng đồng dành cho những người tình dục đồng giới:
Có hàng tá và hàng tá các quán bar dành cho những người tình dục đồng giới ở Chicago. Hãy đến một trong các quán bar đó tối nay với tôi, vào lúc 3 giờ sáng. Tôi sẽ chỉ cho bạn một vài người đáng yêu nhất trên thế giới này, họ là những người đang gào thét, khẩn khoản cần được yêu. Có hàng trăm và hàng trăm người như thế, và ở nơi đó, không lẽ chí có chúng ta là những người biết về tình yêu thương của Đấng Christ thôi ư? Chắc chắn rằng cuộc nghiên cứu về tình yêu thương thường bị xoắn vào hay làm sai đi, thay vào đó là những sự thể hiện tội lỗi; nhưng sự đói khát, sự kêu khóc của trái tim, sự trống rỗng; tất cả đang tìm cách lấp đầy tình yêu thương của Đức Chúa Trời, là Đấng công bình và đang hiện diện trong bạn và tôi. Những người bạn Cơ Đốc cần nên có ở đó; không phải là những người truyền giáo đang nắm trong tay mình bộ máy đàm thoại (có nghĩa là chỉ thuyết giảng như cái máy khi ta gặp họ), nhưng để lắng nghe những người bạn đáng thương đang nói gì...
Hơn bất kỳ điều gì khác, một người đang tranh chiến với sự đồng tính của mình, dù là Cơ Đốc Nhân hoặc không phải là Cơ Đốc Nhân đều nên có một nhu cầu “thách thức” về tình yêu thương. Người này đang bị tổn thương vì mắc bệnh di truyền từ các thành viên trong gia đình, vì những ảnh hưởng môi trường đang xoắn chặt, hoặc cơ bản là vì tội lỗi ảnh hưởng đến mọi người chúng ta. Còn hơn cả là một nạn nhân (không thể chống cự nỗi), người tình dục đồng tính đã là một nạn nhân của tội lỗi. Người này bị tổn thương và thường phải chịu đựng nhiều với xu hướng của mình mà người này đã không thừa hưởng hoặc lựa chọn; nhưng tốt hơn là người này đã học tập lâu dài trước tuổi chịu trách nhiệm (về chính mình). Thường như là điểm cuối cùng trong sự sa ngã vào tình dục đồng giới, người này đã tìm kiếm tình yêu thương và trở nên yêu tình dục làm ô uế. Vì lý do ấy, tại sao người này cần có một người bạn Cơ Đốc? Bởi vì chúng ta có Đấng Christ trong chúng ta, và chúng ta biết tình yêu thương của Ngài, là năng quyền để chữa lành, mang lại sự cứu chuộc, và được thánh hóa bởi Đức Chúa Trời, là Đấng yêu thương. Toàn thế giới của chúng ta có một nhu cầu bức thiết để thấy được tình yêu thương này nơi Đấng Christ, để cảm nhận được nó, đụng chạm nó, kinh nghiệm nó một cách cá nhân; và chúng ta là những công cụ của Ngài để giúp người khác tìm thấy được.43
Theo như người phát biểu ở trên, cộng đồng Cơ Đốc nên tiến tới, chấp nhận người được tư vấn, và đem lại tình yêu thương ấy để tiếp tục giúp cho việc tư vấn cá nhân có hiệu quả hơn. Các Cơ Đốc Nhân cũng có thể thể hiện khả năng có những người bạn thân với những người đồng phái hay khác phái, mà không cần thiết liên quan đến tình dục. Việc không giao thiệp hay quan hệ với những người bạn tình dục đồng giới của ai đó, là làm đe dọa và liên quan tới một tiến trình ngắn gọn và thực tế khi người đó mất đi những người đã ủng hộ và chấp nhận họ. Nếu như không có cộng đồng những người tin Chúa ủng hộ, đang mong đợi và vui vẻ chấp nhận họ như là những người đồng tính luyến ái; thì lúc này họ có thể có xu thế dễ dàng quay lại lối sống cũ của họ.
Kinh nghiệm của một mối quan hệ gần gũi không tình dục với một người cố vấn đồng tính là mục tiêu căn bản của Moberly, đó là giúp đỡ những người đồng tính luyến ái. Khi có được sự chấp nhận và tình yêu thương từ người đồng-tính khác, sự chữa lành hầu như chắc chắn xảy ra, đặc biệt là nếu như mối quan hệ này đi kèm với lời cầu nguyện.44
5. Khuyến khích sự thay đổi cách cư xử.
Ngay cả khi có tình yêu thương và sự chấp nhận, sự thay đổi vẫn sẽ không xảy ra cho người tiếp tục liên quan với những người đồng tính luyến ái khác. Nếu như sự liên quan này vẫn tiếp tục trong một thời gian dài, nó có thể khó mà dừng lại được. Sau một quyết định có chủ ý để thay đổi, người được tư vấn có thể kinh nghiệm những sự tái phát và thỉnh thoảng có thể kháng cự lại ý tưởng để thay đổi có chủ tâm ban đầu. Sự kháng cự như thế nên được thảo luận với một cá tính thẳng thắn, kiên nhẫn, hòa nhã, và kiên quyết.
Một cách để giúp đỡ thay đổi cách cư xử là né tránh những nơi đông người, những nơi công cộng, và những tình huống có thể dẫn đến sự thức tỉnh tình dục. Điều này có thể hướng người đó tới sự cô đơn và một sự thay đổi lối sống, nhưng đây là một cái giá mà người ta phải trả. Hãy nhắc nhở người được tư vấn rằng, Đấng Christ là Đấng tha thứ45 và Đức Thánh Linh luôn luôn có mặt để giúp đỡ chúng ta chống cự lại sự cám dỗ và từ bỏ cách cư xử tội lỗi. Điều này sẽ dễ dàng hơn nếu như có nhiều người khác cùng giúp đỡ, liên tục khích lệ và có sự thăm viếng, tiếp xúc với nhau.
Tại điểm này, cũng có thể có giá trị trong sự thảo luận về lối sống của người được tư vấn. Tình dục là một phần của cuộc sống, nhưng ngoài ra còn có sự thờ phượng, công việc, gia đình, sự giải trí, sự quản lý thời gian, hoạt động thể thao, và nghỉ ngơi. Một người không thể tìm thấy sự trọn vẹn trong cuộc sống khi họ chỉ có sự thỏa mãn tình dục và không gặp các vấn đề gì; tất cả đều sẽ biến mất nếu như sự tư vấn chỉ tập trung xem xét về vấn đề tình dục, điều này sẽ không xảy ra trừ khi người được tư vấn tìm thấy sự thỏa mãn và những cảm giác cá nhân về việc nhận ra các lãnh vực không tình dục của cuộc sống. Như thế, mối quan hệ của người đó với Đấng Christ, sự liên hệ với Nhà thờ, với công việc, hoặc các hoạt động giải trí, sẽ có xu thế rơi trở lại vào trong các mối quan hệ đồng tính luyến ái khi có những sức ép xảy ra. Một cuộc sống cân bằng là một phương thuốc có ý nghĩa phổ biến, đặc biệt là đối với những người có những cảm giác và hành động ít nghiêm trọng và thoáng qua về đồng tính luyến ái.46
6. Nhận ra rằng sự tư vấn có thể là phức tạp và tốn thời gian. Đồng tính luyến ái là một vấn đề phức tạp, thường đó là một vấn đề thâm căn cố đế, và khó khăn để điều trị, đặc biệt nếu được thực hiện bởi một người cố vấn hạn chế khi được huấn luyện hoặc bị giới hạn trong việc tư vấn những người đồng tính. Điều này không có nghĩa là làm cho bạn nản chí. Thay vì thế, đây là lời cảnh báo bạn về sự phức tạp của nó, về nhiệm vụ và công việc của bạn, đồng thời cho thấy sự cần thiết trong một số trường hợp cần có sự chuyển nhượng đến một người cố vấn khác, vì có thể đó là cách tốt nhất để giúp đỡ.
Tại sự mạo hiểm của việc quá đơn giản hóa vấn đề, chúng ta chỉ sẽ đề cập đến ba trong nhiều mục tiêu của việc tư vấn những người đồng tính luyến ái.
(a) Những Mục Tiêu Thuộc Phân Tâm Học. Đây là một mục tiêu lâu dài, tốn kém, và sâu rộng; mục tiêu này nhằm vào việc giúp đỡ người đồng tính luyến ái đạt được sự khai trí về các nguyên nhân của sự định hướng của mình. Đã có nhiều sự tranh cãi về việc, liệu những người đồng tính luyến ái thật sự có được giúp đỡ từ mục tiêu này hay không. Ngay cả nếu như điều này có thể được thể hiện, họ được giúp đỡ, thì cũng không thực tế để suy nghĩ rằng hầu hết những người được tư vấn có thể liên tục nổ lực trước yêu cầu đối với sự chữa trị thuộc phân tâm học, là phải có từ 150-350 buổi trong sự tư vấn riêng lẻ.47
(b) Những Mục Tiêu Thuộc Cách Cư Xử. Được đặt nền tảng trên các nguyên tắc của điều kiện và sự học tập, các mục tiêu này nhằm cố gắng giúp đỡ những người được tư vấn không phát triển những sở thích của họ trong việc quan hệ tình dục đồng giới, đồng thời tiếp thu thêm được một định hướng về quan hệ tình dục với người khác giới. Ít nhất hoặc không có bất cứ sự nhấn mạnh nào được đặt ra nhằm xem xét về khả năng có những sự can thiệp từ gia đình hoặc từ các nỗi sợ hãi, rằng chúng có thể đã gây ra sự đồng tính luyến ái. Mặc dù phương pháp này được áp dụng với việc giảm bớt sự thường xuyên, một số cố vấn còn kích thích sự thức tỉnh tình dục (một số có thể dùng lời nói khiêu dâm) bằng cách cho những người được tư vấn xem những bức ảnh đồng tính, kèm với cú sốc điện giật nhẹ nhàng. Điều này đi kèm theo với sự trình diễn những bức ảnh của những người có tình dục với người khác giới mà không có cú sốc nào xảy ra. Một số những người cố vấn khác thì khuyến khích những cách cư xử của những người có tình dục với người đồng giới ngoài hôn nhân bằng một nổ lực kích thích họ có quan hệ tình dục với người khác giới. Những thực tế này mang lại hiệu quả rất giới hạn, bởi vì nó đụng đến những sự ám chỉ tội lỗi đạo đức của họ; đây là điều các Cơ Đốc Nhân nên tránh đi. Một số phương pháp khác thuộc về cách thực hiện có chiều hướng làm thay đổi cách cư xử và làm giảm đi sự lo lắng, nhưng chúng có thể tạo ra rất ít sự thay đổi về những định hướng đồng tính luyến ái, và có rất ít bằng chứng cho thấy sự thay đổi trong cách cư xử là mãi mãi.
(c) Mục Tiêu Nhiều-Thời Kỳ. Theo như John Powell, một người cố vấn Cơ Đốc tài năng của trường đại học tiểu bang Michigan, thì mục tiêu này có hai giai đoạn: trước-nhiều (premultiple) và nhiều (multiple). Trong thời kỳ trước-nhiều, người được tư vấn cần có một vài buổi trao đổi với một người cố vấn đồng-tính; người cố vấn này thể hiện sự chấp nhận, sự thân thiện, và sự ủng hộ trong khi có sự thảo luận về các nguyên nhân và những sự ám chỉ có thể có về sự đồng tính luyến ái trong lối sống của người được tư vấn, và cân nhắc về cách cư xử đồng tính của người được tư vấn với các mục tiêu cho việc tư vấn. Sau đó, có một sự thay đổi đối với thời kỳ-nhiều. Tại đây, người cố vấn nam và nữ cùng làm việc chung với một người được tư vấn với một nổ lực thể hiện cho thấy người đàn ông và người đàn bà quan hệ thế nào trong những cách có thể làm thỏa mãn cho nhau, để giúp đỡ người được tư vấn giải quyết những mâu thuẫn tồn đọng với cha mẹ của họ, và để dạy dỗ người được tư vấn quan hệ thế nào với những người nam và những người nữ trong những cách trọn vẹn cho nhau.48
Mục tiêu của Powell và những người cộng sự của ông là nhấn mạnh về giá trị giúp đỡ những người được tư vấn kiểm tra lại nền tảng gia đình và các nguyên nhân khác về sự đồng tính luyến ái của họ, để giúp họ học biết nên quan hệ thế nào với những người khác (cả hai phái) theo những cách lành mạnh. Một mục tiêu như thế cũng cho phép những người cố vấn thảo luận về bản chất tội lỗi của cách cư xử đồng tính luyến ái và để thách thức những người được tư vấn thay đổi những hành động của họ nhờ sự giúp đỡ thánh. Lúc ấy, điều này sẽ giải quyết nhiều hơn cách cư xử trong hiện tại, mục tiêu (hoặc một cái gì khác giống như nó) cũng có thể giúp người khác thay đổi những xu hướng đồng tính luyến ái.
SỰ NGĂN CHẶN ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Như chúng ta biết, có bằng chứng thuyết phục cho thấy đồng tính luyến ái cơ bản là một tình trạng được học tập, bị ảnh hưởng cách nhẹ nhàng (nếu như là mạnh mẽ) bởi những sự ảnh hưởng từ di truyền, tuyến, hoặc từ tâm lý. Nếu như điều này là thật, thì chắc chắn sự đồng tính luyến ái có thể được ngăn chặn, bằng cách cung cấp những kinh nghiệm được học tập để kích thích sự khác giới tính. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta có thể đưa ra một bài giảng hoặc giao cho người được tư vấn nhiệm vụ phải đọc hết, và trông chờ điều này sẽ ngăn chặn được sự đồng tính. Việc học tập này phải bắt đầu tại nhà ngay trước khi đứa trẻ biết đọc thế nào.
1. Xây dựng những môi trường gia đình lành mạnh. Từ khi vấn đề đồng tính luyến ái xảy ra thường xuyên từ các mối quan hệ cha mẹ-con cái không như ý muốn, thì gia đình là nơi mà sự ngăn chặn phải được bắt đầu. Không nghi ngờ gì, điều này là thật – không có người cha hay mẹ nào có một cuộc hôn nhân hạnh phúc lại nhờ con trai hoặc con gái giúp đỡ đối với một mối quan hệ nên có với người phối ngẫu của mình. Không có người cha nào khước từ hoặc phớt lờ những đứa con của mình nếu như ông có một cuộc hôn nhân mà ông hài lòng, một công việc không chiếm hết thời gian của ông, và cảm giác an toàn mà ông có về khả năng nam tính của mình và ông cảm thấy tự tin mình là một người đàn ông.50 Không có đứa trẻ nào dường như trở nên đồng tính luyến ái nếu như nó có mối quan hệ ấm áp và đầy cảm xúc, đặc biệt với cha mẹ của nó.
Tất cả các điều trên cho thấy, Nhà thờ ngăn chặn sự đồng tính luyến ái khi, sự kích thích trên các thành viên trong gia đình chủ yếu dựa vào sự dạy dỗ của Kinh Thánh, mà người cha và người mẹ duy trì những vai trò khác nhau một cách rõ ràng; người cha là một người lãnh đạo trong gia đình (tại nhà), con cái phải tôn trọng và ở dưới kỷ luật, và cha mẹ có một mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau. Những gia đình ổn định kích thích các thành viên trong gia đình có những thái độ về tình dục với người khác giới một cách lành mạnh.
2. Đưa ra thông tin chính xác về đồng tính luyến ái. Thật buồn để quan sát thái độ định tội và sự kinh tởm mà rất nhiều Cơ Đốc Nhân thể hiện đối với sự đồng tính luyến ái. Trưởng thành trong một môi trường như thế, những người trẻ sẽ tiếp thu sự sợ hãi trước những người đồng tính luyến ái và bóp nghẹt bất kỳ những xu hướng tình dục đồng giới trong chính con người họ. Thay vì chấp nhận và giải quyết những sở thích đồng-tính của mình, những người trẻ này sẽ tìm cách che giấu chúng đi. Lúc ấy, họ không thể có được sự hiểu biết cần thiết và không thấy cần đến sự giúp đỡ từ cha mẹ hoặc các thành viên trong Nhà thờ; và theo thời gian họ có thể bị trôi dạt hướng tới các nhóm người đồng tính là những người có thể hiểu họ, chấp nhận và yêu thương họ. Vì thế, với thái độ định tội như vậy, đôi khi Nhà thờ đẩy những người này vào trong các tình huống có sự khích lệ từ cách cư xử đồng tính cách công khai.
Sự thay đổi không làm phát triển những thái độ khoan dung, thái độ khoan dung này khước từ tội lỗi của những hành động đồng tính luyến ái. Sự thay đổi, đối với các Nhà thờ là việc dạy dỗ điều mà Kinh Thánh nói về sự kiểm soát tình dục, tình yêu thương, bạn bè, và tình dục (bao gồm đồng tính luyến ái). Các nhà lãnh đạo tôn giáo nên thể hiện một thái độ nhơn từ và khuyến khích, hơn là một thái độ định tội. Những quan niệm rập khuôn về sự đồng tính luyến ái (một số được dạy trong các cuốn sách Cơ Đốc phổ biến về những người có tình dục đồng giới) nên được phơi bày để mọi người thấy: đâu là những điều không thật; những người thờ ơ, phớt lờ kéo dài mãi, sẽ càng kích thích sự sợ hãi, đẩy những người đồng tính luyến ái ra khỏi mối thông công Cơ Đốc, và phục vụ chủ yếu để khích lệ cảm giác cá nhân của sự chỉ trích sự tốt hơn về sự tự-cho mình là công bình. Tất cả những điều này ám chỉ đến việc nên thảo luận về các chủ đề liên quan đến đồng tính luyến ái trong Nhà thờ thay vì khước từ chúng. Điều này là thật, ngày nay còn thật hơn nữa, bởi vì nạn dịch nguy hiểm AIDS xuất hiện rất nhiều trong những người đồng tính luyến ái.51
Khi sự đồng tính luyến ái trở nên công khai, rất có thể sẽ hình thành một thói quen trong cách đáp ứng bởi sự kích thích từ môi trường như vậy, Nhà thờ nên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự tự-điều hướng tình dục của mình. Điều này chỉ xảy ra qua sự cầu nguyện, suy gẫm Kinh Thánh, tránh những tình huống hoặc những người làm thức tỉnh tình dục, có những quyết định cân nhắc, kỹ lưỡng để tránh những hành động tội lỗi, và tạo thói quen chịu trách nhiệm đối với một người bạn hoặc người cố vấn hiểu biết.
3. Phát triển những sự tự-quan niệm lành mạnh. Cách đây một vài năm, George Gilder đã nhận định: “có hàng triệu người đàn ông đang ở dưới những điều kiện sai, đó là việc họ có thái độ rất cởi mở đối với sự đồng tính luyến ái. Một chất xúc tác thường xuyên là sự tự-làm giảm giá trị của mình. Sự thất bại trong tình yêu hoặc trong công việc có thể là nguyên nhân khiến một người đàn ông trở nên quá buồn chán, đến nỗi họ cảm thấy không còn khả năng làm việc gì để có được hay nuôi dưỡng một mối quan hệ với một người đàn bà … Để có một người đàn bà, điều quan trọng là người đàn ông phải cảm thấy mình là một người đàn ông.”52 Nếu như một người đàn ông cảm thấy không hài lòng về mình hoặc cảm thấy mình không có nam tính, người này có thể tìm một mối quan hệ an toàn hơn ở nơi mà anh không phải hành động như là một người đàn ông, hoặc anh không phải chứng tỏ cái nam tính của mình. Có lẽ một tình huống tương tự cũng tồn tại trong người phụ nữ. Một sự tự ti mắc cảm sẽ góp phần làm gia tăng nguy cơ hay sự phát triển của cách cư xử đồng tính luyến ái.
Chương 21 sẽ thảo luận về sự phát triển của sự tự-đánh giá bản thân. Nhà thờ và các gia đình có thể giúp đỡ những người đồng tính xây dựng những sự tự-quan niệm thực tế và tích cực, và theo thời gian, điều này có thể góp phần vào sự ngăn chặn sự đồng tính luyến ái.
CÁC KẾT LUẬN VỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Không thể ước lượng được có bao nhiêu người, bao gồm các Cơ Đốc Nhân, đang tranh chiến với những sự thúc giục đồng tính luyến ái. Vì e ngại bị khước từ hoặc bị hiểu nhầm, nên những người này miễn cưỡng chấp nhận những xu hướng đồng tính của họ. Họ thường tranh chiến một mình, vật lộn với khó khăn, với lầm lỗi hoặc với sự tự-định tội, và tìm ra những sự hợp lý hóa có thể giải thích hoặc tự tha thứ cho những suy nghĩ và những hành động tình dục của họ. Những người như thế có thể được giúp đỡ và Nhà thờ có thể là nơi tốt nhất để giúp đỡ cho họ. Một người cố vấn nhạy bén cần cố gắng hiểu về sự đồng tính luyến ái, vì sự tư vấn với những người có tình dục đồng giới là không khó khăn nhiều hơn so với những loại tư vấn khác. Điều này liên quan tới “một sự ứng dụng năng quyền của Phúc-âm để chữa lành và biến đổi cuộc sống những người của Đức Chúa Trời trong một môi trường tư vấn.”53
Vào thời điểm này của lịch sử, đã có sự quan tâm trải rộng trong những người đồng tính luyến ái và thái độ cởi mở hơn về sự đồng tính. Điều này có lẽ chẳng bao xảy ra trước đó, vì thế đây là một cơ hội đối với các thành viên Nhà thờ và những cố vấn Cơ Đốc để có một ảnh hưởng lớn đến việc tư vấn và sự ngăn chặn đồng tính luyến ái.
Christian Counseling – Gary R Collins
Kinh Thánh nói về ĐTLA
Trả lời: Kinh Thánh trước sau như một nói với chúng ta hành động đồng tính luyến ái là tội (Sáng thế ký 19:1-13; Lê-vi-ký 18:22; Rô-ma 1:26-27; I Cô-rinh-tô 6:9). Rô-ma 1:26-27 dạy chúng ta cách cụ thể đồng tính luyến ái là hậu quả của sự từ chối và bất tuân mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Khi một người tiếp tục ở trong tội lỗi và không tin, Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Đức Chúa Trời phó họ càng hơn cho tội lỗi gian ác và sa đọa để chỉ cho họ sự phù phiếm và đời sống vô hi vọng phân rẻ họ với Đức Chúa Trời. I Cô-rinh-tô 6:9-10 công bố rằng kẻ phạm tội đồng tính luyến ái không được thừa hưởng nước Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời không tạo ra sự ham muốn đồng tính luyến ái cho con người. Kinh Thánh nói với chúng ta con người trở thành đồng tính luyến ái bởi vì tội lỗi (Rô-ma 1:24-27) cuối cùng bởi vì sự chọn lựa của chính họ. Một người có thể sinh ra với sự nhạy cảm mạnh với đồng tính luyến ái giống như một người sinh ra có khuynh hướng bạo lực và những tội lỗi khác. Điều đó không phải là lý do để họ chọn lựa tội lỗi và cho rằng vì cớ sự ham muốn tội lỗi vào trong họ. Nếu một người sinh ra với một sự xúc cảm lớn về tính nóng giận hoặc đam mê có phải được quyền thực hiện những ước muốn của mình không? Dĩ nhiên là không! Đối với đồng tính luyến ái cũng giống như vậy.
Tuy nhiên Kinh Thánh không mô tả đồng tính luyến ái như là một tội lớn hơn các tội khác. Tất cả những tội lỗi là phản nghịch với Đức Chúa Trời. Đồng tính luyến ái chỉ là một trong nhiều điều được liệt kê trong I Cô-rinh-tô 6:9-10 làm cho con người xa cách với nước Đức Chúa Trời. Theo lời Kinh Thánh sự tha thứ của Đức Chúa Trời dành cho người đồng tính luyến ái cũng giống như cho người ngoại tình, kẻ thờ hình tượng, kẻ giết người, trộm cắp.v.v…Đức Chúa Trời hứa ban sức mạnh chiến thắng tội lỗi cho tất cả những ai tin nhận Chúa Giê Xu Christ làm Cứu Chúa của mình, kể cả người đồng tính luyến ái. ( I Cô-rinh-tô 6:11; II Cô-rinh-tô 5:17).
Rev. Dr. Lê Thành Tuấn
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Lovelace, Richard F. Homosexuality and the Church. Old Tappan, N.J.: Revell,1978.*
Moberly, Elizabeth R. Homosexuality: A New Christian Ethic. Greenwood, S.C.: Attic Press,1983.
Tripp, C.A. The Homosexual Matrix. New York: Signet,1975.
White, John. Eros Defiled: The Christian and Sexual Sin. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1977.*
Wilson, Earl. Counseling and Homosexuality. Waco, Tex.: Word,1988.*
Zimbelman, Ernie. Human Sexuality and Evangelical Christians. Lanham, Md.: University Press of America,1985.