Sở dĩ tôi gọi chương này là “Các Kiểu Mẫu” vì muốn nhìn vào các phương pháp khác nhau mà Chúa Giê-xu đã dùng để đối xử với người ta. Lắm khi sường như Ngài sử dụng nhiều phương pháp khác nhau với cùng một người, và chắc chắn là Ngài vốn có một khả năng không hề sai lầm để nói với người ta điều sẽ giúp họ nhìn thấy sự việc thật rõ ràng làm thay đổi cuộc đời họ. Khi nhìn và thấy rồi, lòng họ được mở ra cho quyền năng Thượng Đế do Chúa chúng ta đứng trung gian. Trong phạm vi những gì tôi quan tâm, thì không còn có chủ đích nào khác hơn thế trong cộng tác tư vấn; giúp một người thấy được chính mình và nhìn thấy Chúa Giê-xu để người ấy từng trải được sự hiện diện chữa lành của Cứu Chúa, và trong tiến trình ấy, bước được những bước đầu tiên dẫn tới sự cứu rỗi.
Một trong những lý do để tôi viết quyển sách này là sự cần thiết phải bất đồng ý kiến với điều mà tôi tin là hai khu vực sai lầm quan trọng thường gặp trong các quyển sách viết về công tác tư vấn. Một là việc nhấn mạnh “chỉ phải làm như thế này mà thôi”. Phương pháp tự vấn này là một tiến trình có thể học tập, từng bước một, từ một quyển sách và người ta sẽ phải theo đúng những khuôn rập đã được xác định rõ ràng. Thường thường thì tác giả sẽ nói rất nhiều điều về giá trị nhưng tính cách cứng nhắc của bộ khung ấy phủ nhận cá tính có một không hai của con người ta, và tương phản rõ rệt với các chứng nhân của các sách Phúc âm cho sự kiện Chúa Giê-xu đã tỏ ra cởi mử và thích nghi hoá rất tài khi đối xử với người ta.
Lý do thứ hai còn quan trọng hơn và cũng phiền phức y như thế. Nó bao gồm một thái độ tư vấn đặt các mục tiêu của mình cao hơn cả chính người đến cầu vấn; giúp người ấy đạt đến chỗ tự hiểu mình, thông cảm với chính mình, tự chấp nhận, tự giúp lấy mình; để người ấy có thể tự trông cậy nhiều hơn vào bản thân và tha nhân. Đây là một phương pháp tiếp cận chủ yếu là hân bản không thật sự dành một chỗ nào Thượng Đế đầy tình yêu thương, sẵn sàng dấn thân giúp đỡ loài người cả. Thí dụ như qua nhiều năm tôi đã học hỏi rất nhiều từ Howard Clinebell, và quyển sách rất hữu ích của ông nhan đề Bosic Types of Pastoral Counselling là quyển sách mà tội đã đặt vào tay các sinh viên của tôi. Nó rất khôn ngoan và tăng bằng, và sau khi được nghe Clinebell thuyết giảng, tôi biết chắc ông là một người biết rõ và yêu mến Chúa. Nhưng theo cách trình bày của ông, thì mục vụ tư vấn dường như là một tiến trình trong đó nhiều nhất thì Thượng Đế cũng chỉ thủ một vai trò hết sức hạn chế; còn những cái nhìn xuyên suốt của tâm lý học (the insights of psychology) dù sao thì cũng quan trọng hơn năng động lực của công trình sáng tạo của Thượng Đế. Cũng có một phần thảo luận kéo dài bàn qua viễn ảnh của Cơ-đốc giáo trong công tác tư vấn và nhiều đoạn viện dẫn thoáng qua, nhưng ông quá chú trọng vào con người đến nỗi - dường như theo tôi - ông đã quên mất Cứu Chúa. Ông đã viết quyển sách ấy năm 1966 (tôi biết là kể từ đó quyển sách của ông đã được duyệt xét lại nhưng vẫn chưa được thấy ấn bản được hiệu đính) và giả định trước các phản ứng chống lại Thượng Đế và ngôn ngữ truyền thống của Thượng Đế dường như là điều khiến ông tránh né việc đề cập quyền năng cứu rỗi của một Thượng Đế đầy lòng yêu thương. Nhưng ông đã không đặt gì để thay vào đó cả. Những cái nhìn xuyên suốt của tâm lý học và của ngành tư vấn thế tục vẫn nắm quyền tể trị tối cao.
Cho nên, vấn đề không phải là vì các tác giả viết sách về tư vấn vốn không có thẩm quyền - trái lại là khác - nhưng dường như họ chỉ đi có một phần của con đường; họ đứng khựng lại trước điểm dị biệt là Thượng Đế cũng tự chứng tỏ Ngài vốn là một thành viên dự phần tích cực vào tiến trình tư vấn qua quyền năng của Thánh Linh Ngài. Sự việc có vẻ như là những cái nhìn xuyên suốt của tâm lý học và của các quyển sách về ngành tư vấn đã có được một sự hiểu biết thấu đáo, đến nỗi các cố vấn là Cơ-đốc nhân bị mất bình tĩnh để tin rằng chẳng có gì khác ngoài những gì đã được viết ra trong các lãnh vực phi Cơ-đốc giáo mới có thể thật sự có giá trị mà thôi. Lẽ dĩ nhiên điều đó thật vô nghĩa. Quyền năng của Linh của Thượng đang được dành sẵn cho sẽ chỉ dạy chúng ta và hướng dẫn chúng ta, và chúng ta đã có các kiểu mẫu mà Chúa Giê-xu ban cho trong các mối liên hệ của chính Ngài với tha nhân.
Cũng quan trọng giống như thế, chúng ta là những người thừa kế phần di sản lớn lao của cái nhìn xuyên suốt thuộc linh và tình cảm qua các thời đại, và điều này cũng tập trung chú ý vào Chúa Giê-xu khi Ngài tiếp xúc với tha nhân. Tất cả tác giả lớn viết về sinh hoạt thuộc linh, nhờ đã thấm nhuần trong các lời phán và hành động của Chúa Giê-xu, đều rất khéo léo trong việc giúp đỡ người ta tự nhìn thấy bản thân như chính Chúa Cứu Thế muốn họ nhìn thấy vậy. Cho nên Cơ-đốc nhân làm công tác tư vấn chẳng cần gì phải xấu hổ về phần gia tài đó của mình. Theo nhiều phương diện, người ấy đang nói rất hiều điều tương tự như vị cố vấn của đời. Trong nhiều lãnh vực người ấy có thể chiếu sáng trên nhiều thái độ và hoàn cảnh mà vị cố vấn của đời không thể đến gần. Trong tình hình như thế chúng ta chẳng có lý do gì để tự phụ tự mã, mà chỉ tin quyết rằng nếu chúng ta cứ nhìn chăm vào Ngài, chúng ta sẽ không bị nhầm lẫn nhiều lắm.
Lúc tôi còn làm việc bán thời gian trong một bệnh viện tâm thần, tôi nhận thấy mình bị các nhân viên y tế và y tá “lợi dụng” không phải vì tôi giỏi về thần kinh học hay có được những cái nhìn xuyên suốt tâm lý quan trọng, mà đúng hơn là vì tôi tiếp cận với người ta theo một cung cách khác hơn. Kết quả là hội đồng y sĩ sẽ xin ý kiến của tôi về một bệnh nhân, hay sẽ cố gắng giúp đỡ người ấy, vì họ tự thấy mình không thể hiểu rõ được người bệnh nhân đó. Tôi chỉ được đào tạo về thần học và mục vụ, nhưng đã được chấp nhận nhờ cố gắng tự biến mình trở nên hữu dụng vì thấy mình là một thành viên trong tập đoàn những người được Thượng Đế phong chức, có nhiều cái nhìn xuyên suốt và bối cảnh phải đem ra sử dụng vì sức khoẻ và sự tăng trưởng của các bệnh nhân. Đó là những ngày tuyệt vời vì chúng chứng minh cho tôi rằng là các cố vấn Cơ-đốc nhân, chúng ta có rất nhiều điều để nói trong những hoàn cảnh như thế y như bất kỳ một ai khác, miễn là chúng ta đừng tưởng rằng mình có thể hay phải nói đủ chuyện!
Bây giờ, xin chúng ta trở lại với một vài kiểu mẫu mà Chúa Giê-xu đã ban cho công tác tư vấn của chúng ta.
1. Ni-cô-đem.
Ni-cô-đem là một loại người khả phổ biến. Ông bị Chúa Giê-xu cuốn hút, nhưng bị địa vị của mình kìm chân lại. Ông không muốn bị thiên hạ nhìn thấy là có giao du với Chúa Giê-xu, thế nhưng rõ ràng là ông muốn biết nhiều hơn là những gì mình đã đích thân học hỏi nghiên cứu về những cái nhìn thông tuệ đã đem đến cho mình. Ông nhận thấy trong Chúa Giê-xu có một điều gì đó, nhưng cũng sợ bị mất mặt đủ để bị bắt buộc phải bí mật đến với Ngài. Ông là một “nhà trí thức”, một người am hiểu Luật pháp và Do-thái giáo, thế nhưng cũng khiêm hạ đủ để muốn học hỏi thêm. Ông đã học được nhiều hơn điều ông dự đoán!
Chúa Giê-xu không muốn cãi lý với Ni-cô-đem theo những điều kiện do chính ông đặt ra. Ngài bắt đầu bằng cách vượt xa những cái nhìn thông tuệ và học thức của Ni-cô-đem. Ngài đã đưa ông đến một chiều kích mà rõ rànglà Do-thái giáo đã chẳng bao giờ bàn tới. Ngài kết hợp việc được “tái sinh” với kiến thức về Nước Trời. Vấn đề là tái sinh và câu đề cập rõ ràng sau đó về phép báp-tem vốn vượt xa lãnh vực mà trong đó Ni-cô-đem cảm thấy mình được an toàn. Ông cố hiểu điều Chúa Giê-xu nói theo nghĩa đen, nhưng hiểu như thế thì không đúng. Chúa Giê-xu vạch cho Ni-cô-đem thấy các phương diện của đức tin ông mà ông chưa được biết và dẫn ông đi xa hơn điều ông trông mong. Nhưng Chúa Giê-xu không chỉ trò chuyện trong bóng tối, mà Ngài chỉ cho Ni-cô-đem một chiều kích mới của đức tin, của chính ông và một phương pháp mới để nhìn thấy Chúa Giê-xu, Thượng Đế và bản thân ông. Chúa Giê-xu bắt đầu khiến cho Ni-cô-đem ngạc nhiên rồi kết thúc bằng cách thách thức ông. Đại khái Ngài hỏi: “Ông có thích bóng tối hơn ánh sáng không?” rồi đẩy xa hơn: “Ông đã lấy làm xấu hổ vì tôi, đến nỗi thích bóng tối hơn ánh sáng sao?” Nói khác đi, hành động của Ni-cô-đem là đến với Chúa Giê-xu ban đêm có lẽ được tiếp tục nữa hay không, hay Ni-cô-đem sẽ thấy người tên Giê-xu trong quá khứ là người có thể gây rắc rối cho ông về phương diện xã hội, chính là Chúa Giê-xu Con Thượng Đế, hay không? Do đó, thật là điều hay khi thấy Ni-cô-đem bênh vực Chúa Giê-xu trước Hội đồng Quốc gia; và khi chôn cất Ngài, Ni-cô-đem đã được mô tả là “người (trước kia) đã hầu chuyện với Chúa ban đêm”, cho thấy chắc chắn rằng sau đó, Ni-cô-đem đã công khai giao du với Chúa Giê-xu - nghĩa là bước đi trong ánh sáng.
Thế thì khuôn mẫu này thật rõ ràng. Chúa Giê-xu bắt đầu ngay tại điểm Ni-cô-đem đang đứng, dẫn ông đi từ chỗ trí thức thuần tuý đến một khải tượng mới về đạo mà ông vốn biết rất rõ. Từ đó, Ngài lại đưa ông tới chỗ ý thức được tình yêu thương của Thượng Đế và một lòng can đảm đáng kinh ngạc. Chúa Giê-xu là điểm khác biệt trong cuộc đời Ni-cô-đem và đó là yếu tố khiến ông lặn sâu vào đời sống mới.
2. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Trên nhiều phương diện, đây là một trong số những biến cố hấp dẫn nhất đã được tường trình lại về Chúa Giê-xu. Sự kiện các cổ bản Tân ước đã không biết phải xếp nó vào đâu, không hề có nghĩa rằng câu chuyện này không có thật. Nó có đầy đủ các vết hằn chứng minh đây là một câu chuyện có thật, y như bất kỳ một biến cố nào khác trong Phúc âm, và có nhiều điều để nói với chúng ta về các mối liên hệ.
Câu chuyện thật đơn giản. Trong một văn cảnh là Chúa Giê-xu đang phán dạy tại Đền thờ, có đông người vây quanh, đã có kẻ muốn dùng thủ đoạn để lừa gạt Ngài. Rõ ràng là Luật pháp tuyên bố rằng kẻ ngoại tình phải bị xử tử. Tay Ra-bi giả mạo này sẽ phải tiêu tan sự nghiệp nếu dám làm gì khác hơn đối với vụ án ngoại tình quả tang này. Sự việc xảy ra dường như trong lúc họ đang ở trên đường dẫn người thiếu phụ nọ đi đến ném đá, họ bỗng nảy ra ý định muốn làm mất uy tín của Ngài trước công chúng. Do đó, Chúa Giê-xu đã phải gặp một lúc đến hai vấn đề: trước hợp một người phạm tội rõ ràng mà nếu cứ bỏ qua không trừng trị sẽ có thể đưa đến tình trạng đạo đức xã hội bị suy đồi, và có một bọn người lạnh lùng, thản nhiên muốn xử tử người ấy, đồng thời khiến Ngài bị mất uy tín. Chúa Giê-xu đã đối phó riêng rẽ với hai vấn đề ấy. Ngài giúp cho những người bảo vệ Luật pháp và quốc gia dân tộc thấy rằng những viên đá mà họ sắp ném ra đó rất có thể cùng được ném vào chính họ. Dường như họ đã phải miễn cưỡng học bài học này - có lẽ họ đã phải xấu hổ về chính thái độ tàn nhẫn và ý muốn “chơi trội” của họ đối với Ngài.
Người thiếu phụ lại được đối xử khác hẳn. Chúa Giê-xu chẳng cần chi phải kết án bà ta - việc ấy thì Luật pháp đã làm rồi. Chỗ khác đi, ấy là giờ đây chẳng còn ai thi hành bản án nữa. Chúa Giê-xu thì chẳng hề có ý định làm việc ấy. Chúa Giê-xu thừa nhận bà ta cần được thương yêu và tiếp nhận, nhưng đã không bỏ qua cho hành động của bà ta. Lệnh truyền của Ngài “Về đi, từ nay đừng phạm tội nữa” nói lên rõ ràng rằng Ngài nhìn nhận tội lỗi và tha thứ cho tội nhân. Bà ta đã không chỉ được đơn giản tha đi với chỉ một lời cảnh cáo mà thôi, trái lại, sẽ phải sống một cuộc đời phù hợp với các ranh giới khắt khe của Luật pháp. Một lần nữa, điểm khác nhau trong hoàn cảnh ở đây trái với vô số các trường hợp khác trước đây và từ đó trở về sau, là Chúa Giê-xu. Ngài tự lập làm Thẩm phán để xét xử mọi tội lỗi, và mọi tội lỗi phải được nhìn thấy dưới làn ánh sáng của Chúa Giê-xu. Cho nên chúng ta có thể thấy cách Ngài đã đối với với tình hình.
Một là, Ngài triệt để không phán xét. Trong biến cố này, mọi người đều biết là tội lỗi đang hiện diện. Điều họ cần biết là qui mô của nó.
Hai là, Ngài vốn là đầy lòng yêu thương và nhân từ đối với cả các cấp lãnh đạo lẫn người thiếu phụ. Gặp trường hợp phải quyết định sống hay chết, thì Ngài là sự sống.
Ba là, Ngài đã đặt đúng câu hỏi, cho nên họ đã thấy được đúng vấn đề. Thứ tư, khi tha cho bà ta đi, không thể có việc tha thứ cho điều bà ta đã làm, nhưng rất có thể là bà ta sẽ có được một cuộc đời mới. Như thế, Chúa Giê-xu đã nhìn thấy bản tính thật của hoàn cảnh và quyền năng cứu rỗi của Ngài đã vận hành trong đó.
3. Các môn đệ Chúa - ai lớn nhất? Thiết tưởng chúng ta chẳng cần chi phải xét từng trường hợp một về cách Chúa Giê-xu đối xử với các môn đệ Ngài; nhưng biến cố cá biệt này rất quan trọng. Một lần nữa, xin chú ý đến văn cảnh. Một vài người trong đám họ vừa chứng kiến phép lạ Hoá hình, những người khác đang chán nản thất vọng vì không chừa được cho cậu bé bị động kinh. Chúa Giê-xu vừa đưa ra một lời tiên báo khác nữa về sự sống thương khó của Ngài, và chẳng có gì đáng lấy làmlạ nếu các môn đệ Ngài đang cảm thấy bồn chồn bất an.
Thế là một cuộc tranh luận về ai là “người lớn nhất” đã nổ ra giữa đám họ. Chúa Giê-xu đã chờ đến đúng lúc rồi mới đưa ra câu hỏi thoạt nghe có vẻ như vô thưởng vô phạt. Sự im lặng của họ cho thấy một khi đã được phơi bày ra, cuộc tranh luận của họ có vẻ trẻ con và phù phiếm. Tuy nhiên Chúa Giê-xu cho đó là điều nghiêm trọng. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu cho đó là điều nghiêm trọng. Rất có thể nó trẻ con, phù phiếm đấy, nhưng nó tiêu biểu co các ý nghĩ đích thực của họ. Ngài không bảo họ chớ nên có những ý nghĩ như thế - làm sao họ lại không có những thắc mắc như thế cho được? Nó vốn là một phần của sự bồn chồn bất an của họ kia mà!
Tuy nhiên, điều Chúa Giê-xu làm là giúp họ thấy được bản tính đích thực của tính cách vĩ đại và những thái độ tạo nên sự vĩ đại ấy. Cho nên, thân phận tôi tớ và chấp nhận cái nhỏ mọn, vô nghĩa là những dấu chỉ cho thấy con người muốn trở nên vĩ đại. Ngài ban cho họ một cây thước đo dài hơn vinh quang của đời này rất nhiều. Dù sao thì tất cả những điều đó đều chỉ tương đối và nhanh chóng bị quên đi. Chấp nhận điều có vẻ như vô nghĩa trong đời sống và một thái độ của tâm trí hìn thấy trách nhiệm trong việc phục vụ, sẽ dẫn người ta đến với Chúa Giê-xu, và xa hơn nữa là với Đức Chúa Cha. Một lần nữa, hãy xét xem Chúa Giê-xu đang chứng minh gì cho chúng ta.
Một là, Ngài cho rằng tâm trạng bồn cồn bất an là ngiêm trọng, bất chấp cách nó bộc lộ có nhỏ mọn như thế nào. Hai là, Ngài chỉ cho họ thấy các vấn đề đích thực - tính cách vĩ đại thực và sự an toàn đích thực.
Ngài không kết án họ, cũng không bảo rằng họ khờ dại. Ngài vốn quá yêu thương họ để có thể nói như thế. Bằng cách đặt một ấu nhi giữa họ, Ngài dùng một thị cụ trong đó các vấn đề đều được tập trung thật rõ ràng.
4. Ma-ri Mặc-lan. Đã có nhiều điều được viết về Ma-ri Mặc-lan rồi, mà cá biệt là Frank Lake ã nói rất nhiều về cô như một bệnh nhân cuồng loạn điển hình. Tôi không thể đồng ý với ông và nhiều người khác để cho rằng Ma-ri Mặc-lan chính là Ma-ri em của Mặc-lan là cô gái điếm đã được Lưu-ca, Mác và Mã-thi đề cập như là người đã xức dầu cho Chúa Giê-xu. Chứng cứ hiển nhiên duy nhất chúng ta có được, là cô Ma-ri này là người đã chứng kiến cảnh Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào thập tự giá và sống lại, và điều này thì được thấy rõ ràng nhất trong sách Phúc âm Giăng.
Cho dù người ta có muốn cho rằng cô ta là ai (và dường như cô ta nhiều đặc điểm của mộ nhân cách cuồng loạn), cô ta đã có mặt tại phần mộ của Chúa Giê-xu, khóc lóc dầm dề. Chắc chắn cô ta làm như thế là có lý do. Chẳng có gì để nghi ngờ là sau khi đã gặp Chúa Giê-xu mặt đối mặt, lần đầ tiên cô ta đã biết được thế nào là sự sống, và một con người biết quan tâm chăm sóc, trong khi những người khác dường như chẳng quan tâm gì đến. Cả đến việc này cũng chỉ là phỏng đoán. Nhưng cô chỉ biết khóc - cho một phương hướng đã mất và cho một thi thể đã chết - để chứng tỏ thái độ bất mãn cùng cực. Sự xuất hiện của Chúa Giê-xu tạo ra một chuỗi tiếng nói, một niềm hi vọng từ nỗi thất vọng là ít ra cô cũng có thể sắp xếp lại cái thi thể ấy cho ngay ngắn chững chạc. Có lẽ đúng hơn đó là một điểm vật lý trên đó cô có thể ghim vào những niềm hi vọng và những nguyện vọng đã bị mất đi của mình. Cả khi cô đã nhận ra Chúa Giê-xu, Ngài sẽ không để cho việc cô chịu lệ thuộc vào Ngài tự nó được bộc lộ bằng việc chạm vào Ngài. Cô ta được sai đi làm một việc khiến cô ta vô cùng kinh ngạc và khiến cô ý thức được chính giá trị của mình, với tư cách một người được chứng kiến sự phục sinh. Tiêu điểm ở đây rất cụ thể - và nó đã tiến hành có kết quả, vì tôi đã thấy nó xảy ra.
Một là sự lệ thuộc được cho phép bộ lộ - tuy không được khích lệ cụ thể.
Hai là Chúa Giê-xu không cho phép sự lệ thuộc ấy cứ tiếp tục. Đã có một lệnh truyền thật rõ ràng: “Đừng chạm đến ta”. Vấn đề là có chạm đến cũng sẽ chẳng được ích lợi gì cả. Điều giúp ích là một điều gì đó sẽ đáp ứng được nhiều nhu cầu khác càng quan trọng hơn của cô ta.
Ba là, các nhu cầu đó là nhìn ra bên ngoài chính cô ta, và trở thành hữu dụng. Người ta có thể thấy Ma-ri là một người rất dễ dàng nương tựa, nhưng một khi đã được giao phó phải làm một việc gì cho một ai đó, cô sẽ thực hiện nó thật khéo léo tài tình và hết sức kiên trì. Một khi đã được ban cho những cái nhìn xuyên suốt đúng đắn, cô Ma-ri Mặc-lan của thế gian này là những nhà truyền đạo đang chờ đợi để được sử dụng - chờ đợi để làm bất cứ việc gì cần làm. Cái yếu tố chỉ đơn giản ngồi xuống và hưởng thụ những gì Thượng Đế ban cho mình cũng có ở đây nữa. Bao lâu Đấng mà cô nương tựa là chính Thượng Đế, thì cô sẽ có được một chức vụ quan trọng.
5. Thầy Biệt-lập Si-môn. Có lẽ biến cố trong đời sống Chúa Giê-xu mà tôi tâm đắc là câu chuyện liên hệ đến thầy Biệt-lập Si-môn. Có lẽ sở dĩ như thế, là vì Si-môn rất giống tôi - không hẳn là trưởng giả, nhưng là kẻ mà khi đã có rủng rỉnh đồng tiền, thì rất sẵn sàng đứng về phía đám trưởng giả. Theo nhiều phương diện ông ta không phải là một thầy Biệt-lập điển hình - có lẽ đám Biệt-lập thật sự khắc nghiệt đều ở Giê-ru-sa-lem kia - và vì sẵn sàng chan hoà với mọi người trong khu vực, Si-môn vốn có khuynh hướng hơi dễ chấp nhận mọi người hơn. Cho nên dù động cơ thúc đẩy ông mời Chúa Giê-xu dùng bữa có là gì đi chăng nữa, Si-môn cũng đã tạo điều kiện cho Chúa Giê-xu trở thành đối tượng của một tình yêu thương, mà lại là một tình yêu thương uỷ mị, sướt mướt đến thế. Chúa Giê-xu chắc đã biết rõ các ý nghĩ của ông ta. Nhân cơ hội này, có lẽ Chúa Giê-xu chẳng cần gì phải sáng suốt lắm mới biện biệt được chúng. Chỉ cần nhìn thoáng qua nét mặt của Si-môn cũng đã đủ lắm rồi. Chắc nó đã biểu lộ vẻ không ưa, sự gớm ghiếc, vì gia thế của Si-môn hoặc ít hoặc nhiều, đã bảo đảm loại thái độ bất tán thành đó.
Câu trả lời của Chúa Giê-xu cho Si-môn rất quan trọng. Ngài không bảo: “Nghĩ như thế là tội đấy”, hay “Ông là ai mà dám phán xét người phụ nữ này?” Ngài chỉ kể một câu chuyện mà do tính cách hết sức đơn giản của nó, đã khiến cho Si-môn phải dừng lại, chú ý, và đòi hỏi ông ta phải có một câu trả lời. Sau khi Si-môn đã phê phán đúng đắn rồi (phải là một người ngu xuẩn lắm mới không phê phán đứng đắn được), Chúa Giê-xu mới chỉ ra những điểm khác nhau giữ thái độ đầy yêu thương của người phụ nữ này, với thái độ không tán thành cứng nhắc của Si-môn. Cả đến lúc ấy, Chúa Giê-xu vẫn không đưa ra lời giải thích trên cơ sở pháp lý, mà liên hệ đến sự ăn năn và tình yêu thương. Đại ý người chỉ ăn năn ít sẽ yêu thương ít, vì chỉ có rất ít lý do để có thể thật sự thương yêu. Điều trái ngược lại cũng là đúng. Cho nên Si-môn đã bị mắc trong chiếc bẫy của Chúa Giê-xu. Nếu ông ta chịu chấp nhận điều đó, rất có nhiều hi vọng để ông ta ý thức được sự cứu rỗi và sự sống cách mới mẻ. Vậy, tôi xin tóm tắt:
Một là, Chúa Giê-xu để mặc cho người phụ nữ kia bày tỏ tình yêu thương theo cách của cô ta. Hai là, Ngài cho phép Si-môn bày tỏ thái độ không tán thành của ông ta theo cách của ông ta. Ba là, Ngài không lên án mà chỉ rút ra một loại so sánh đối chiếu cho phép có sự tăng trưởng - và việc phê phán. Nhưng một khi đã biết phê phán, thì nó sẽ vừa nhân ái vừa cương quyết. Nó chẳng dành chỗ nào cho việc lựa chọn mập mờ cả; nhưng nó cũng có thể khép cho Si-môn tội phải sa hoả ngục. Ngài đã làm sáng tỏ mọi vấn đề nhằm kêu gọi người ta phải ăn năn và có tình yêu thương.
6. Chàng thanh niên giàu có và Giu-đa. Ghép chung hai người này lại có vẻ là điều lạ nhưng họ vốn thuộc ùng một loại: những người được Chúa Giê-xu cho phép tự do quyết định, cả khi điều đó có nghĩa là về sau này, chính Ngài sẽ có thể gặp nguy hiểm. Vấn đề là cả hai người đều được tự do theo con đường sai, tuy họ sẽ phải nhận lấy hậu quả của những gì họ làm. Chúng ta đã thấy chàng thanh niên giàu có trước đây rồi, nhưng bây giờ, hãy theo dõi anh ta một lần nữa.
Anh ta đã đặt một câu hỏi mà lời đáp thì anh ta đã biết rõ rồi. Anh ta đã giữ luật pháp, nhưng dường như anh ta vẫn chẳng có hạnh phúc. Chúa Giê-xu truyền cho anh ta hãy bán hết gia tài và đem đi bố thí, điều mà anh ta không thể làm - anh ta quá giàu có để có thể thích ứng được với một sự tự chối mình triệt để đến thế. Cho nên thay vì theo Ngài, anh ta đã buồn bã đi theo con đường riêng. Chúa Giê-xu đã chỉ rõ anh ta phải hành động như thế nào, nhưng không ép buộc anh ta phải hành động đúng như thế. Đã không có việc cưỡng bách; không có chuyện đe doạ đạo đức hoặc thuộc linh; chỉ có việc thẳng thắn chọn lựa và được tự do thực hiện việc ấy. Đó là phương pháp của Chúa Giê-xu và Ngài cũng không kém tình yêu thương khi người ta chọn lựa sai lầm.
Chúng ta cũng thấy điều này trong trường hợp của Giu-đa. Cả bốn sách Phúc âm đều chép rằng ông đã tham gia một âm mưu nhằm “thanh toán” Chúa Giê-xu. Chỉ một mình Giăng ghi lại các biến cố tại bàn ăn khiến Giu-đa lẫn nhanh vào đêm tối. Lẽ dĩ nhiên điều này rất có ý nghĩa đối với Giăng - vì Giu-đa là một nhân viên của các lực lượng tối tăm đang tìm cách dập tắt ánh sáng. Cho nên việc Giu-đa có mặt trong vườn Ghết-sê-ma-nê để chỉ Chúa Giê-xu cho đám người đi bắt Ngài chỉ là một diễn biến hợp lý mà thôi. Có điều lý thú là sách Giăng đã không đề cập cái hôn, nhưng ghi lại việc Chúa Giê-xu trao cho Giu-đa một mẫu bánh nhỏ trong Bữa Tiệc Tối Cuối Cùng, và ở đây thì chính Chúa Giê-xu đã giành quyền chủ động đi bước trước. Chẳng những Chúa Giê-xu đã nắm quyền chủ động, mà chính mẫu bánh nhỏ nhúng vào đĩa súp là dấu hiệu của tình yêu thương không bờ bến. Như thế, kẻ đã bị Sa-tan nhập chính là người mà Chúa Giê-xu tìm cách cứu vớt bằng hành động yêu thương. Ngay khi Chúa Giê-xu ban nó ra, Ngài đã biết là số phận của người ấy đã được định đoạt rồi; Giu-đa đã cho guồng máy khởi động rồi, và không còn có thể quay lui được nữa.
Do đó mà lời phán của Chúa Giê-xu rất có ý nghĩa cho chúng ta: “Việc con làm, hãy làm cho nhanh!” Ngài đã không hề có ý thử ngăn ông lại. Ngài cỉ đơn giản nhận thức được rằng Giu-đa đang làm điều mà ông tin là đúng, và Chúa Giê-xu chấp nhận, cho phép ông ta làm. Đó là tình yêu thương đến cùng cực của Chúa Giê-xu. Thấy rõ việc Giu-đa làm, chấp nhận Giu-đa y như ông ta vốn có, bất chấp mối đe doạ mà Giu-đa tạo ra và cho ông ta quyền tự do để làm việc ấy. Hành động phản trắc của ông được bí mật thực hiện trong bóng đêm chỉ khiến cho sự việc càng đáng sợ hơn, và sự tương phản giữa tối và sáng lại càng lộ liễu và đáng kinh hoàng hơn nữa.
Cho nên một lần nữa, quyền tự do mà Chúa Giê-xu ban cho là quyền tự do chỉ có thể đến từ một Đấng rất yêu thương, đến nỗi thà chết còn hơn là ép buộc người ta bước vào một mối liên hệ với Thượng Đế, điều sẽ chỉ là nông nổi và giả tạo, không tránh né vào đâu được.
Tất cả những việc này có ý nghĩa gì cho người cố vấn?
Tôi đã lấy những kiểu mẫu từ các sách Phúc âm ra với ý định rõ rệt là chứng minh nhiều cách đối xử với người ta rất khác nhau của Chúa Giê-xu. Chắc chắn là chúng ta còn có thể tiếp tục làm việc này, nhưng vấn đề thì đã rõ ràng rồi. Chúa Giê-xu luôn luôn “bắt” người ta tại những điểm vượt xa ý nghĩ của họ. Ngài từ chối chơi trò trí thức với Ni-cô-đem, nhưng đối mặt với ông bằng những cái nhìn xuyên suốt, chẳng những bắt buộc được ông phải dùng trí tuệ để tham gia cuộc đối thoại, mà còn phải tận dụng cả con người ông nữa, và trong tiến trình ấy, đã giúp ông có được một sự mạnh dạn mới trong đời sống. Người thiếu phụ ngoại tình bị bắt quả tang đã không bị kết án; mà cả chàng thanh niên giàu có và Giu-đa cũng thế. Họ đã được cho phép chọn lựa giữa hai cách trả lời, và những chọn lữa ấy sẽ phán xét hoặc cứu rỗi họ (hay kết án họ, tuỳ trường hợp).
Ngài cho phép các môn đệ Ngài bồn chồn bất an - rồi ban cho họ một khải tượng mới mẻ về an toàn; Ngài chấp nhận tâm trạng tan vỡ của Ma-ri Mặc-lan để giao cho cô một nhiệm vụ sẽ khiến cô vượt hẳn chính mình. Ngài cho hép Si-môn phải đòi, nhưng nêu lên cho ông một loạt các định chuẩn mới để phê phán thiên hạ và để hành động trong tương lai.
Trong tất cả những câu chuyện này, bài học cho công tác tư vấn có thể được tóm tắt chỉ trong một lời: biện biệt. Chúa Giê-xu nhìn thấy vượt trên bề mặt và bề ngoài; Ngài không hề bị trói buộc vào chỉ một kiểu liên hệ tiếp xúc mà thôi; Ngài để cho mỗi người phát triển thật độc đáo, và đối xử với từng người thật độc đáo. Tình yêu thương chiến thắng tất cả của Ngài đối với từng người đều tạo ấn tượng sâu sắc và khiến họ vô cùng khiếp sợ, vì đó là loại tình yêu thương giải phóng theo một cung cách mà chính nó vốn có phần nào đáng phải khiếp sợ. Trong từng trường hợp một, sản phẩm cuối cùng là tự do - tự do chấp (tin) nhận để được cứu, hay tự do khước từ và sống với các hậu quả của sự bất kỉnh vô đạo. Với vị cố vấn, mục tiêu chắc chắn cũng phải giống y như thế. Chúng ta không ên ép buộc người ta, cũng không thể tự suy nghĩ lấy. Chúng ta phải yêu thương họ để nhìn thấy vượt trên cái nhỏ mọn của hiện tại, hầu đạt đến những chân lý càng cơ bản hơn cần phải lãnh hội.
Thế là, trong sự biện biệt của Chúa Giê-xu, Ngài giúp để người ta có thể tăng trưởng - và chịu trách nhiệm. Mà trách nhiệm có nghĩa là khả năng tự biết mình thật rõ đến độ có khả năng đáp lại với Ngài và đáp ứng các đòi hỏi của Ngài. Chịu trách nhiệm có nghĩa là được tự do tự chấp nhận theo như cách Chúa Giê-xu tiếp nhận tôi để sống một cuộc đời phản ảnh quyết định của tôi. Cho dù quyết định ấy có là gì đi chăng nữa, tình yêu thương của Chúa Giê-xu vốn không hề tan vỡ và bất biến. Bản thân Chúa Giê-xu có thể phải chịu ruồng bỏ, sợ hãi, tiếp nhận và yêu thương, nhưng những điều đó chẳng khiến được cho tình yêu thương của Ngài đổi khác, vì đó là tình yêu thương mà Ngài ban ra - cả cho kẻ chẳng đáng yêu.
Cho nên, nhiệm vụ của vị cố vấn là phải cầu nguyện xin sự biện biệt và cho người cầu vấn được tự do phan ứng theo cách người ấy phải chịu nhiều trách nhiệm nhất. Chẳng hề có chỗ nào cho việc hăm doạ hoặc ép buộc, mà chỉ cần chắc chắn rằng các vấn đề đã hết sức rõ ràng rồi. Và điều này dẫn chúng ta vaò chương tiếp theo sau đây.