NỖI LO ÂU
ANXIETY
RON, một thanh niên hai mươi tuổi, khỏe mạnh, đẹp trai, và được nhiều người bạn của anh quí mến. Cho đến gần đây, anh đã được ghi tên vào học tại một trường cao đẳng Cơ Đốc ở miền Trung tây như là một sinh viên kinh tế; thế nhưng vào giữa năm thứ hai của khóa học ở trường cao đẳng, chỉ một tuần trước khi kết thúc khóa học, anh đã rút tên khỏi trường.
“Tôi đã không thể giải quyết được sự lo âu của mình”, anh đã nói với vị bác sĩ gia đình của anh sau khi lái xe về nhà. “Trong suốt các kỳ kiểm tra, tôi có thể toát mồ hôi lạnh, tâm trí tôi có thể trống rỗng, và tôi có thể quên hết mọi thứ mà tôi đã học. Sau khi học ở trường một thời gian, tôi không đi học ở các lớp giảng dạy nữa. Các thầy cô rất bối rối bởi vì tôi luôn e ngại mình có thể quên nhiều thứ có thể có trong bài kiểm tra. Vào cuối quý của khóa học, tôi đã cảm thấy không thoải mái ngay cả việc vào giảng đường. Tiếp theo, tôi không đi đến các tiệm cà-phê nữa bởi vì tôi e ngại mình có thể gặp một trong những thầy cô giáo của tôi ở đó. Thời gian cuối cùng ở trường, tôi hầu như e sợ là mình đã quá lo lắng, ngay cả việc rời căn phòng của tôi.”
Ron là một Cơ Đốc Nhân. Anh có một bảng câu gốc kẹp trong quyển Kinh Thánh của mình, ở trong Phi-líp 4 và anh có gạch dưới các câu 6 và 7: “Chớ lo-phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu-nguyện, nài-xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu-xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình-an của Đức Chúa Trời vượt-quá mọi sự hiểu-biết, sẽ gìn-giữ lòng và ý-tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ.”
Thế nhưng, mặc cho những lời cầu nguyện của mình, Ron vẫn cảm thấy không có sự bình an. Trái lại, anh cảm thấy sợ hãi như đang đi tìm một công việc, bây giờ anh đã rời khỏi trường. Anh ngẫm nghĩ, “Nếu như không có ai sẽ thuê anh?” “Nếu tôi tìm được một công việc và tôi lại không thể làm được công việc đó?” “Nếu như tôi lại lo lắng khi đi làm?”
Bác sĩ đã kê khai một vài loại thuốc nặng để chữa trị căn bệnh lo lắng cho Ron, và đề nghị anh tìm đến một người tư vấn. Những hiệu quả êm dịu của các loại thuốc an thần có thể làm cho Ron có được một cuộc hẹn cho việc tư vấn. Người tư vấn và Ron cùng nhau cố gắng để hiểu các nguyên nhân tạo sự lo lắng mạnh mẽ này. Có thể họ sẽ xem xét những cách để thư giãn và để đối diện với sự căng thẳng – bao gồm sự căng thẳng của một công việc mới.
Cha mẹ của Ron chấp nhận ý tưởng để cho anh được tư vấn, thế nhưng họ không đủ kiên nhẫn đối với sự cải thiện. Cha của anh là một thương gia có nhiều thành đạt-việc kinh doanh của ông ở Trung đông rất thành công, ông muốn thấy mọi thứ phải được thành công nhanh chóng. Ông rất ít kiên nhẫn với ý tưởng của người con trai của mình để nhìn thấy “một loại bác sĩ tâm thần nào đó”, và ông hy vọng rằng tất cả những nỗi lo âu của Ron sẽ sớm kết thúc.
Ron tin rằng cha mình cũng là nguyên nhân gây ra nhiều lo lắng riêng của anh. Anh cũng biết rằng sự lo lắng của anh có thể có một căn nguyên về thể chất. Thế nhưng anh cũng thắc mắc, nếu như nhiều vấn đề được áp dụng từ sức ép bởi ý nghĩa-tốt của anh, nhưng người cha của anh lại thiếu kiên nhẫn và thiếu nhạy bén.
Sự lo lắng, căng thẳng, sợ hãi, nỗi ám ảnh, tình trạng căng thẳng về tinh thần – những từ kỹ thuật này có những ý nghĩa khác nhưng chúng thường được sử dụng cách thay đổi từ bên trong để miêu tả một trong các vấn đề chung nhất của thế kỷ này. Nỗi lo âu được gọi là “cảm xúc chính thức của thời đại chúng ta”, nền tảng của mọi triệu chứng loạn thần kinh chức năng, và “hiện tượng tâm lý tỏa khắp hầu hết trong thời đại của chúng ta.” Điều này là sự tồn tại cũ kỹ cũng như sự tồn tại của con người, thế nhưng những sự phức tạp và nhịp sống hiện đại đã thức tỉnh chúng ta đối với sự hiện hữu của nó và có thể làm gia tăng ảnh hưởng của nó.
Nỗi lo âu là một cảm giác bên trong của sự lo lắng về tương lai, sự phức tạp, suy tư lo lắng, và/hoặc nỗi sợ hãi theo sau do sự thức tỉnh thể chất nặng nề. Trong những khoảng thời gian lo lắng, cơ thể thức tỉnh để cảnh giác, sẵn sàng để trốn chạy hoặc kháng cự lại. Tim đập nhanh hơn, huyết áp và sự căng cơ bắp tăng, các sự thay đổi về thần kinh và cơ hóa xuất hiện bên trong, thỉnh thoảng mồ hôi toát ra, và người ta có thể cảm thấy muốn ngất đi, tim đập thình thịch, và không thể thư giãn được. Sự lo lắng có thể gia tăng tùy theo sự nhận biết thế nào về từng mối nguy hiểm có thể xảy ra (nhiều nhà văn gọi điều này là “sự sợ hãi” hơn là gọi sự lo lắng), hoặc nó có thể xuất hiện trong phản ứng đối với một nỗi sợ hãi tưởng tượng hoặc không biết được. Loại lo lắng cuối rốt này được gọi là “tự do vô định”; người lo lắng có cảm giác một điều gì đó ghê ghớm sắp sửa xảy ra, thế nhưng người này không biết điều đó là cái gì và tại sao lại xảy ra.
Các loại khác nhau của sự lo lắng được nhận dạng bao gồm loại bình thường và dễ làm kích thích thần kinh, loại điều độ và mạnh mẽ, loại tình trạng và đặc điểm.
Loại lo lắng bình thường thỉnh thoảng xuất hiện trong tất cả chúng ta, thường xuất hiện khi có nỗi sợ hãi thật sự hoặc khi gặp tình huống nguy hiểm nào đó. Hầu hết sự lo lắng này thường cân xứng với mối nguy hiểm (sự sợ hãi càng lớn thì sự lo lắng lớn hơn). Đây là sự lo lắng mà ta có thể nhận ra, có thể kiểm soát được, và giảm được, đặc biệt là khi các tình huống thay đổi. Loại lo lắng dễ làm kích thích thần kinh liên quan tới những cảm giác do thổi phồng sự bất năng và nỗi khiếp sợ, ngay cả khi mối nguy hiểm là nhẹ hoặc không tồn tại. Nhiều người tư vấn tin rằng sự lo lắng này không thể đối diện một cách trung thực và cần được giải quyết một cách hợp lý, bởi vì nó có thể phát xuất từ những mâu thuẫn không nhận thức được bên trong con người. Để nhắc lại sự nhận định chính xác của Rollo May, thì sự lo lắng dễ làm kích thích thần kinh “không cân xứng đối với mối nguy hiểm khách quan, bởi vì có sự mâu thuẫn tâm linh bên trong nào đó có liên quan.”1
Sự lo lắng có thể khác nhau về mức độ và sự ảnh hưởng của nó. Loại lo lắng điều độ có thể được trông đợi và tạo sảng khoái. Thông thường loại lo lắng này có động lực, giúp đỡ người khác tránh được các tình huống nguy hiểm, và hướng dẫn đến hiệu quả gia tăng. Ngược lại, loại lo lắng mạnh mẽ thì căng thẳng hơn. Loại lo lắng này có thể làm rút ngắn thời gian quan tâm suy nghĩ của ai đó, gây mất tập trung, hay quên, hạn chế các kỹ năng đối phó, tác động đến việc giải quyết nan đề, ngăn chặn sự giao tiếp hiệu quả, thức tỉnh sự sợ hãi, và thỉnh thoảng gây ra những triệu chứng không tốt về thể chất như là chứng bại liệt, tim đập nhanh, hoặc các loại nhức đầu ghê ghớm.
Một nhà nghiên cứu về tâm lý học đã cho rằng sự lo lắng cũng có thể là một tình trạng hoặc một đặc điểm.2 Loại lo lắng tình trạng thường xuất hiện nhanh chóng, có thể hoặc không thể gây tác động mạnh mẽ, và ngắn. Đây là một phản ứng lo lắng về tương lai gần, rất nghiêm trọng khi có liên quan, nó xuất hiện trong tất cả chúng ta qua thời gian. Thường thường nó xuất hiện như là một sự phản ứng đối với nỗi sợ hãi nào đó, và đôi khi nó được kinh nghiệm như là một sự hứng thú.3 Ngược lại, loại lo lắng đặc điểm là một sự căng thẳng về cảm xúc ăn sâu vào tiềm thức, từng-hiện hữu, và còn tồn tại. Nó xuất hiện khi người ta luôn luôn lo lắng. Thường thì nó gây ra các chứng bệnh về thể chất, bởi vì cơ thể không thể thực hiện chức năng một cách hiệu quả khi tồn tại trong một tình trạng căng thẳng và thức tỉnh triền miên.
Hai loại khác của sự lo lắng thu hút nguồn dữ liệu và sự chú ý chuyên nghiệp trong suốt vài năm gần đây: những sự mất quân bình do sự căng thẳng vị trí-chấn thương (PTSD) vì căn bệnh lo lắng. Sự căng thẳng tột độ – như mâu thuẫn hay mối nguy hiểm trong quân ngũ, sự hãm hiếp, bạo lực, khủng bố, sự liên quan đến một tai nạn nghiêm trọng, bắt cóc, hoặc thiên tai - như là một trận bão lốc hoặc động đất, có thể là việc từ bỏ quyền thừa kế một tài sản, cuộc sống kéo dài trong lo lắng. Nhiều năm sau lần bị chấn thương, một vài người có những cơn ác mộng, những nỗi sợ hãi phi lý, sự thất vọng, lo lắng, và mất đi sự thú vị trong các hoạt động đã từng làm họ vui thích. Đối với những người này, sự lo lắng đã trở thành một cách sống theo sau sự nhận thức về một kinh nghiệm căng thẳng trước đó. Những sự mất quân bình do sự căng thẳng vị trí-chấn thương này xuất hiện thường xuyên ở những cựu chiến binh Việt Nam,4 thế nhưng họ đang trải qua những sự lo lắng có thể xảy ra cho bất kỳ ai trong chúng ta sau một kinh nghiệm chấn thương.
Căn bệnh lo lắng là một thuật ngữ được sử dụng để miêu tả những sự tấn công nghiêm trọng của nỗi sợ hãi, nguy hiểm và thình lình; thường đến từ những người bình thường, thường không được cảnh báo trước, và xuất hiện thường xuyên khi người ta ít trông chờ nhất. Ước tính năm phần trăm dân số, hầu hết là phụ nữ, kinh nghiệm những phản ứng sợ hãi này. Trong nhiều năm sự lo lắng này đã được ví như là một sự mất quân bình về tâm lý, nhưng khi chúng ta gặp, bấy giờ càng có nhiều bằng chứng chứng tỏ nguồn gốc của nó là thuộc lãnh vực sinh vật học.5
THÁNH KINH VÀ SỰ LO LẮNG
Trong Kinh Thánh, “sự lo lắng” được sử dụng trong hai cách, một là sự quan tâm trong sáng và hai là sự băn khoăn, hoặc lo lắng.
Sự lo lắng trong hình thức bày tỏ sự quan tâm thực tế không bị kết tội cũng không phải bị cấm đoán. Mặc dầu Phao-lô có thể viết, ông đã không quan tâm (lo lắng) về việc ông có thể bị đánh đòn, bị rét lạnh, bị đói, hoặc ở trong sự nguy hiểm; Phao-lô cũng nói rằng ông đã lo lắng (quan tâm) về hết thảy các Hội-thánh. Đây là sự quan tâm chân tình đến người khác, đã đặt một gánh nặng hàng ngày lên vị Sứ-đồ,6 và đã làm cho Ti-mô-thê cũng “lo lắng cách chân tình” (quan tâm và thú vị).7
Sự lo lắng như là sự băn khoăn và lo lắng có thể đã có trong tâm trí của người sáng tác các bài thánh ca khi ông viết: “khi tư tưởng bộn-bề trong lòng tôi, thì sự an-ủi Ngài làm vui-vẻ linh-hồn tôi.”8 Trong Bài giảng Trên Núi, Chúa Jêsus đã dạy rằng chúng ta không nên lo lắng về tương lai hoặc về những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, như là thức ăn và quần áo. Chúa Jêsus đã phán, chúng ta có một Cha trên trời, Ngài biết điều chúng ta cần và Ngài sẽ cung cấp.9 Trong các thư tín Tân Ước, Phi-e-rơ và Phao-lô cũng đã nói lên kết luận này. “Không lo lắng về điều gì cả,” chúng ta hãy đọc trong Phi-líp. Thay vì thế, các Cơ Đốc Nhân hãy dâng những nhu cầu của mình cho Đức Chúa Trời, với một thái độ biết ơn, trông chờ để được kinh nghiệm “sự bình-an của Đức Chúa Trời vượt-quá mọi sự hiểu-biết.”10 Chúng ta có thể ném tất cả mọi sự lo lắng cho Đức Chúa Trời bởi vì Ngài là Đấng chăm sóc chúng ta.11
Sự lo lắng như là sự băn khoăn và lo lắng xuất hiện khi chúng ta quay khỏi Đức Chúa Trời, lúc đó chúng ta sẽ hứng chịu các gánh nặng của cuộc sống trên chính chúng ta, và giả sử – ít nhất bởi những thái độ và hành động của mình, chúng ta sẽ một mình chịu trách nhiệm về cách giải quyết các nan đề của mình. Thay vì nhận biết sự tể trị và quyền năng của Đức Chúa Trời, hoặc “trước hết hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời và sự công-bình của Ngài”,12 nhiều người trong chúng ta – là những người tư vấn và những người được tư vấn – mặc vội sự tự tin-sự tin cậy tội lỗi và sự bận tâm với những áp lực của cuộc sống riêng của chúng ta.
Theo như Thánh Kinh, không có gì là sai khi ta thành thật đối diện và cố gắng giải quyết các nan đề có thể nhận biết được của cuộc sống. Làm ngểttước mối nguy hiểm là dại dột và sai trái. Nhưng cũng là sai và không lành mạnh, nếu ta lo lắng quá mức để ngăn chặn hoặc làm cho mọi việc bình thường. Những sự quan tâm tồn tại trong chúng ta phải được dâng lên cho Đức Chúa Trời với lời cầu nguyện, Ngài là Đấng có thể giải phóng chúng ta khỏi sự tê liệt của nỗi sợ hãi hoặc lo âu, và giúp chúng ta có thể giải quyết những nhu cầu một cách thực tế cho hết thảy những người khác và cho chính chúng ta.
Mỗi người đều biết rằng không dễ để “trục xuất sự lo lắng”,13 hoặc không dễ để “không lo lắng về bất kỳ điều gì.”14 Thật là khó để con người “ném những gánh nặng của họ cho Đức Chúa Trời”, thật khó để tin cậy nơi Đức Chúa Trời rằng Ngài biết các nhu cầu của họ, thật khó để trông đợi sự trợ giúp của Ngài và thật là khó để biết khi nào cần có trách nhiệm vào những lúc gặp tình huống khó khăn. Những người lo lắng thường là những người thiếu kiên nhẫn, họ là những người cần được giúp đỡ trong việc giải quyết những áp lực của họ một cách thực tế và trong lộ trình thời gian hoàn hảo của Đức Chúa Trời.
Người tư vấn Cơ Đốc có thể là một ví dụ điển hình về một người yên lặng tin cậy nơi Đức Chúa Trời khi cần các nhu cầu. Người tư vấn cũng có thể giúp đỡ những người được tư vấn thấy được những lời hứa của Đức Chúa Trời, nhận ra được quyền năng và sức ảnh hưởng của Ngài trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, và hành động đúng lúc. Đối với nhiều người được tư vấn, điều này cũng có ích nếu như họ có thể hiểu được các nguyên nhân và hậu quả của sự lo lắng tồn tại trong họ.
CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ LO LẮNG
Các sách giáo khoa tư vấn miêu tả một vài lý thuyết về các nguyên nhân của sự lo lắng. Trong một cuốn sách nhỏ có tiêu đề Nan đề lo lắng,15 chẳng hạn như, Freud đã thảo luận tình huống này trong những thuật ngữ theo quan điểm của ông rằng cá tính có ba phần: bản năng vô thức (id) bao gồm những bản năng mà chúng đòi hỏi sự mãn nguyện tức thời, cái tôi (ego) là nhận thức về thế giới bên trong và giữ cá tính trong sự giao tiếp với thực tế, và siêu kỷ (superego) là cảm giác mang tính đạo đức đúng và sai. Theo Freud, sự lo lắng xuất hiện (a) khi cái tôi thấy một nỗi sợ hãi rõ ràng đối với con người (điều này đã được gọi là sự lo lắng thực tế); (b) khi bản năng vô thức bắt đầu nhận quá nhiều năng lực đến nỗi nó đe dọa bao phủ cái tôi và khiến cho con người hành động với cách cư xử không thể chấp nhận được về tình dục và có sự tranh đấu về xã hội (loại lo lắng dễ làm kích thích thần kinh); hoặc (c) siêu kỷ nhận quá nhiều năng lực và khiến cho con người bị bao phủ bởi tội lỗi hoặc sự xấu hổ (sự lo lắng đạo đức). Các nhà văn sau này đã từ bỏ quan điểm này của Freud và đã thấy rằng sự lo lắng xuất hiện từ sự đấu tranh thuộc bản năng bên trong và hơn thế nữa đôi khi là kết quả của những sức ép về văn hóa hay những sự đe dọa từ thế giới mà chúng ta đang sống. Về sau đã xuất hiện một sự nhấn mạnh trong việc học tập, với lời đề nghị rằng sự lo lắng là một tình huống mà chúng ta có được qua sự quy định.16 Các nhà văn gần đây hơn đã tập trung sự chú ý trên nền tảng sinh vật học của sự lo lắng.17
Việc xem xét kỹ càng những điều này cùng các lý thuyết khác giúp chúng ta có thể kết luận rằng sự lo lắng xuất hiện từ mối đe dọa, sự mâu thuẫn, nỗi sợ hãi, những nhu cầu không thích đáng, chức năng, và những sự khác nhau riêng lẻ.
1. Sự đe dọa. Về sau, nền văn học có một khái niệm sâu-sắc, nhà tâm lý học Rollo May đã kết luận rằng sự lo lắng luôn được biểu lộ ra từ một sự đe dọa cho ai đó để làm một điều mà cá nhân ấy phải cân nhắc điều gì là quan trọng. 18 Thỉnh thoảng sự lo lắng xuất hiện bởi vì cuộc sống của người nào đó bị đe dọa. Thông thường, chúng ta cảm thấy bị đe dọa (và vì thế chúng ta lo lắng) vì sự nguy hiểm nào đó, do mất tự tin và sự kính trọng từ những người khác, sự xói mòn của các giá trị của chúng ta, hoặc sự tác động của những ảnh hưởng vô thức.
(a) Mối nguy hiểm. Tội ác, chiến tranh, bầu không khí đầy bạo lực, các loại bệnh tật không được trông đợi và không thể giải thích được, ngay cả các cuộc viếng thăm nha sĩ, tất cả đều có thể đe dọa nhiều cá nhân và gây ra lo lắng. Thỉnh thoảng, hầu hết mọi người đều lo lắng về việc tìm kiếm công việc làm, khi đọc bài diễn văn, hoặc làm bài kiểm tra. Sự lo lắng về tương lai này xuất hiện bởi vì người ta không chắc về điều mình trông mong và cảm thấy bất lực để ngăn chặn hoặc làm giảm đi sự đe dọa.
(b) Sự tự đánh giá chính mình. Hầu hết mọi người đều thích nhìn mặt tích cực và thể hiện tài năng của mình. Chúng ta cảm thấy bị đe dọa bởi bất kỳ điều gì có thể làm hại đến hình ảnh của mình và ám chỉ (đến những người khác hoặc đến chính chúng ta) rằng chúng ta không thực sự tài giỏi. Nhiều người tự nhận thức về một sự lo lắng nhỏ trong các tình huống mới từ Xã hội, bởi vì họ không chắc chắn phải hành động thể nào hoặc lo ngại về phản ứng của những người khác. Trên một mức độ nghiêm trọng hơn, một vài người trốn tránh việc làm bài kiểm tra, tránh việc chấp nhận một sự tăng chức, hoặc tránh đi nguy cơ thất bại mang tính nguy hiểm, bởi vì khả năng không thành công là quá đe dọa đến sự tự đánh giá chính mình của họ.
(c) Sự chia rẽ. Chẳng bao giờ là dễ dàng để chia lìa với những người có ý nghĩa với mình. Việc bạn có thể hoang mang, và nỗi đau đớn khôn nguôi khi chúng ta xa rời hoặc từ chối một người tri kỷ. Cái chết của một người thân yêu, dời chuyển chỗ ở, sự ly dị, lời đính ước đổ vỡ – những vấn đề này và những sự chia rẽ khác có thể khiến chúng ta cảm thấy không chắc chắn về tương lai, bị buồn rầu bởi một khoảng trống xúc cảm trong lòng, và cảm thấy bất an khi chúng ta suy nghĩ “Tôi phải làm gì bây giờ?”
(d) Các giá trị. Nhiều người trong chúng ta sống tại các chế độ dân chủ có xu hướng đề cao giá trị tư tưởng tự do cá nhân. Điều này có thể đang đe dọa và đem lại-sự lo lắng; tuy nhiên, khi sự tự do và những thứ khác mà chúng ta đề cao mất đi sẽ tạo ra mối nguy hiểm phá hủy ngấm ngầm hoặc mất đi. Một công nhân thất bại để nhận được sự tiến thân có giá trị, cảm thấy bị đe dọa khi nghĩ mình thiếu khả năng để thành công và có thể thăng tiến về kinh tế. Một người con chối bỏ tôn giáo của gia đình hoặc từ chối các chuẩn mực truyền thống về tình dục dường như gây ra sự lo lắng (và thường là giận dữ) cho cha mẹ vì các giá trị của họ đang bị thách thức, và có lẽ bị đe dọa. Nếu một chính trị gia được tuyển chọn, trong một cương lĩnh chính trị mà nó trái ngược với các giá trị của chúng ta, điều này có thể làm cho bất kỳ ai trong chúng ta cảm thấy bị đe dọa và lo lắng.
(e) Những sự ảnh hưởng vô thức. Ngay cả với những người tư vấn từ chối nhiều học thuyết của Freud cũng đồng ý rằng những sự ảnh hưởng vô thức có thể là nền tảng của một sự lo lắng nào đó. Có quá nhiều (thực tế và tưởng tượng) mối nguy hiểm trong thế giới này mà hầu hết mọi người đều làm ngơ đi một vài sự căng thẳng mang tính tiềm ẩn và cố đẩy chúng ra khỏi tâm trí của họ. Điều này không có nghĩa là sai khi nó được hoàn tất một cách có chủ tâm và tạm thời, thế nhưng theo Freud, những sự đe dọa và những sự quan tâm được thúc ép cho những người vô thức có thể gây bứt rứt trong khi họ đang còn thiếu sáng suốt. Về sau, những ý tưởng vô thức này có thể chuyển hướng để trở thành có ý thức. Điều đó có thể đang đe dọa bởi vì sau đó chúng ta bị ép buộc phải đối diện với các nan đề mà chúng ta không hiểu được hoặc không biết phải giải quyết thế nào.
Chúng ta thử xem xét trường hợp của một chàng thanh niên trẻ tuổi đã bị nỗi lo lắng lớn chiếm ngự khi anh đang xem buổi biểu diễn múa ba-lê. Anh đã cảm thấy tốt hơn nên rời rạp hát, thế nhưng sau đó anh lại quyết định tìm đến sự tư vấn. Khi sự kiện đã được thảo luận, người tư vấn đã kết luận rằng anh thanh niên này đã có những xu hướng đồng tình luyến ái vô thức mạnh mẽ, anh đã tranh chiến khiến nó trở nên có ý thức. Trong suốt cuộc trình diễn, anh đã bị thu hút một cách vô thức đến các nam diễn viên múa ba-lê. Sự lo lắng đã ám ảnh và được anh suy nghĩ trong phản ứng trước mối đe dọa mà những sự cảnh giác của anh có thể bị gãy đổ, và thế là anh cho phép những xu hướng đồng tính luyến ái trở nên lộ rõ cho chính mình và đối với những người khác.
Một sự diễn giải như thế là trở ngại đầu tiên cho người tư vấn, và có sự bất đồng giữa những người tư vấn – Cơ Đốc và không phải là Cơ Đốc – về việc liệu có tồn tại những người vô thức hay không.19 Vì thế, nỗi sợ hãi của chàng thanh niên trẻ tuổi này là một ví dụ điển hình cho sự lo lắng mà nó xuất hiện để đáp ứng một tình huống cụ thể. Bằng cách xem xét thời gian và địa điểm khi sự lo lắng thức tỉnh, người tư vấn thường có thể nhận thấy dấu hiệu chú tâm đến vấn đề cụ thể đe dọa người được tư vấn.
2. Mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một nguyên nhân khác của sự lo lắng. Khi một người bị ảnh hưởng bởi hai hoặc nhiều áp lực, người đó sẽ có một cảm giác không chắc chắn mà lại thường hướng đến sự lo lắng.20 Hầu hết các sách về tâm lý đều cho rằng những mâu thuẫn đến từ hai hướng: sự tiếp cận và sự né tránh. Để tiếp cận cần có một xu hướng để làm điều gì đó hoặc để di chuyển trong một hướng đi nào đó sẽ làm hài lòng và vui vẻ. Việc né tránh là để kháng cự lại việc làm một điều gì đó, có lẽ bởi vì nó sẽ không làm hài lòng và vui vẻ. Có ba loại căn bản của những mâu thuẫn: tiếp cận-tiếp cận, tiếp cận-né tránh, và né tránh-tránh thoát.
(a) Mâu thuẫn Tiếp cận-Tiếp cận. Đây là một loại mâu thuẫn có xu hướng để theo đuổi hai mục đích khát khao nhưng là những mục đích xung khắc. Chúng ta có thể đối diện với hai lời mời ăn tối trong cùng một buổi tối, có thể chúng ta đều thích cả hai lời mời ấy. Thường thì rất khó để chúng ta có một quyết định trong trường hợp như vậy, và thỉnh thoảng điều này làm thức tỉnh sự lo lắng.
(b) Mâu thuẫn Tiếp cận-Né tránh. Đây là một sự khát khao để làm điều gì đó và không làm nó. Chẳng hạn như một người có thể vật lộn với khó khăn khi có một công việc mới. Để chấp nhận điều này, có thể đem lại nhiều cơ hội và lương bổng cao hơn (tiếp cận), thế nhưng điều này cũng có thể đem lại sự cần thiết phải di chuyển và sự bất lợi của một chương trình huấn luyện (sự tránh đi). Để có được một quyết định trong trường hợp đó có thể liên quan đến sự lo lắng vấn đề cần được cân nhắc.
(c) Né tránh-Tránh thoát. Ở đây có hai sự thay đổi, cả hai đều có thể không hài lòng: như việc sống với một căn bệnh đau đớn, ngược lại điều này là việc cần có một cuộc phẩu thuật – rất có thể là đau đớn lắm.
Hầu hết các mâu thuẫn đều liên quan tới một sự tranh chiến giữa hai hoặc nhiều sự thay đổi, mỗi một sự thay đổi có thể có sự tiếp cận và sự né tránh đi các đặc điểm. Chẳng hạn như một người trẻ tuổi có thể cân nhắc liệu có nên ở lại để tiếp tục làm công việc hiện tại hay không, hay chuyển đến một ví trí khác, hoặc quay trở lại trường học. Mỗi một sự thay đổi này đều có các lãnh vực khẳng định và phủ định, và sự lo lắng tồn tại cho đến khi có được sự lựa chọn. Thỉnh thoảng sự lo lắng kéo dài sau khi đã có quyết định, trong trường hợp một người xem xét mình đã có quyết định đúng hay không.
3. Sợ hãi. Mặc dầu có một vài người tư vấn phân biệt sự sợ hãi với sự lo lắng, tương tự như vậy một sự lo lắng về tương lai trong lòng mang cả hai đặc điểm.
Henri Nouwen đã viết rằng, chúng ta những người sống trong thế kỷ thứ hai mươi là một dân tộc sợ hãi.21 Trên các trang báo, tạp chí đầy ắp các vấn đề; và tâm trí chúng ta cũng không có tình yêu thương hoàn hảo để quăng đi nỗi sợ hãi ấy. Thay vì thế, mỗi chúng ta hướng sự quan tâm đến một loạt những nỗi sợ hãi của cá nhân chúng ta. Những người khác thì e ngại gặp thất bại, lo sợ về tương lai, về chiến tranh hạt nhân, sợ bị khước từ, sự thiếu tình thân, sự thành công, trách nhiệm, sự mâu thuẫn, sự vô nghĩa trong cuộc sống (thỉnh thoảng những điều này còn gọi là sự lo lắng tồn đọng), bệnh tật, sự chết, nỗi cô đơn, sự thay đổi,22 và một loạt những khả năng thực tế và tưởng tượng khác nữa. Thỉnh thoảng những nỗi sợ hãi này có thể hình thành trong tâm trí chúng ta và gây ra sự lo lắng tột cùng ngay cả khi không hề có bất kỳ một mối nguy hiểm thực tế nào xảy ra cả.
Theo một nghiên cứu khác, sự lo lắng thường xuất hiện bởi vì người ta có những niềm tin phi lý tạo ra sự sợ hãi. Khi những người được tư vấn kết luận rằng “mọi thứ chắc chắn tồi tệ hơn”, “không có điều gì có thể được hoàn tất để thay đổi những trường hợp của tôi cả”, hoặc “Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể đọc một bài diễn văn trước công chúng cả”; những sự tin như thế tạo ra sự sợ hãi tồn đọng trong họ. Để giúp đỡ những người này, những niềm tin phi lý như vậy cần phải được thách thức.”23
4. Những nhu cầu không thích đáng. Những nhu cầu căn bản của con người là gì? Mỗi chúng ta có thể có các câu trả lời khác nhau, nhưng một nhà văn24 đã cho rằng con người có sáu nhu cầu căn bản:
• Sự sống còn (nhu cầu để tiếp tục tồn tại).
• Sự an toàn (nhu cầu đối với sự ổn định về kinh tế cũng như về cảm xúc).
• Tình dục (nhu cầu để có sự thân mật gần gũi).
• Ý nghĩa (nhu cầu để tổng cộng mọi thứ lại và đánh giá chúng).
• Sự tự-hoàn thành (nhu cầu đạt được sự hoàn thành các mục đích).
• Tình trạng bản thân (nhu cầu để nhận biết về tình cảm).
Nếu như chúng ta thất bại khi gặp những nhu cầu này hoặc những nhu cầu khác, chúng ta có thể cảm thấy lo lắng, “cảm-thấy-như-đang-ở-trên-mây”, e ngại, và thất vọng.
Thế nhưng sẽ thế nào nếu như có được tất cả những nhu cầu này? Cuộc sống có thể hoàn tất, thỏa mãn, và không lo lắng chăng? Chắc hẳn không phải thế! Vẫn có những thắc mắc về cuộc sống được ban cho ở trên đất: Tôi sẽ đi đâu sau khi chết? Có phải sự tồn tại bao gồm chỉ một vài năm ngắn ngủi trên đất chăng? Mục đích cuộc sống của tôi là gì? Thỉnh thoảng những câu hỏi như thế này được gọi là những câu hỏi tồn đọng và chúng thường hướng đến sự lo lắng cần được cân nhắc. Có thể chúng ta không có sự tự do dài lâu từ loại lo lắng này cho đến khi chúng ta nhận được sự bình an của Đức Chúa Trời, chúng ta được an nghỉ trong lời hứa của Ngài đối với sự vĩnh hằng, và chúng ta nhận biết sự bình an chỉ đến khi tội lỗi của chúng ta được xưng ra và chúng ta được tha thứ hoàn toàn.25
5. Chức năng. Những nghiên cứu về y khoa chưa phát hiện được sự đa dạng của việc mất quân bình về thể chất mà chúng có thể đem lại sự lo lắng và các triệu chứng sợ hãi cho con người.26 Chẳng hạn như tình trạng hở mũ van tim là một sự bất bình thường không nghiêm trọng mấy của trái tim, nghiên cứu cho biết trong 15 phần trăm dân số mắc bệnh này chỉ có 5 người lớn, đặc biệt là phụ nữ. Hơn nửa những người này không thấy có triệu chứng khác biệt nào và cũng không cần sự chữa trị nào. Tuy nhiên, một số người khác có những triệu chứng đi kèm với sự sợ hãi: đau ngực, mệt mõi, choáng váng, thở dồi dập, tim đập nhanh, và có sự lo lắng cao độ.27
Nhà tâm thần học David Sheehan cho biết “căn bệnh lo lắng” phát sinh có liên quan đến sinh vật học như thế sẽ gây ra sự sợ hãi, sợ hãi sẽ làm rối loạn-cuộc sống cho hàng ngàn người.28 Sheehan đã cho biết có bảy giai đoạn lo lắng:
• Cá nhân dường như có sự lo lắng với các triệu chứng về thể chất (chẳng hạn như: đau đầu nhẹ, thở khó, mệt tim, đau ngực, khó thở, hoặc các bệnh đau đầu nặng) – chúng xuất hiện không có sự báo trước và không có nguyên nhân rõ ràng.
• Vào thời gian đó, các triệu chứng phát triển mạnh hơn và chúng xuất hiện dưới hình thức những sự tấn công mạnh mẽ vì sợ hãi – xuất hiện một cách vô ý thức và có thể xuất hiện một vài lần mỗi tuần.
• Không ngạc nhiên khi một người trở nên quá đỗi quan tâm đến cái chết của mình. Khi lo lắng về điều đang xảy ra cho thân thể mình, các bệnh nhân bắt đầu trông giống như những người lo lắng thái quá về sức khỏe của họ. Những người bạn và người thân nói với họ “thôi đi”, hoặc “hãy tin cậy nơi Đức Chúa Trời”, thế nhưng sự sợ hãi và những sự quan tâm về thể chất vẫn tồn tại trong suy nghĩ của họ.
• Nếu như những sự tấn công sợ hãi vẫn tồn tại, cá nhân bắt đầu phát triển những sự ám ảnh. Một người phụ nữ đã bị sự sợ hãi tấn công mỗi khi vào trong thang máy. Điều này đã làm cô quá sợ hãi đến nỗi cô trở nên e ngại để bước vào thang máy một lần nữa, và cô tự nhủ “nếu có chuyện gì xảy ra cho cô” thì thang máy có thể làm cho cô tái diễn sự sợ hãi.
• Kế đến, những sự ám ảnh về xã hội phát triển. E ngại khi gần gũi những người khác thì sự sợ hãi lại xuất hiện, và các bệnh nhân bắt đầu rút lui.
• Khi sự mất quân bình trở nên tồi tệ hơn, có người e ngại khi đi ra ngoài. Bất cứ nơi nào hoặc một sự kiện liên quan đến một sự tấn công trước đó hoặc có thể sẽ xảy ra trong tương lai, tốt nhất là cần phải tránh đi.
• Không ngạc nhiên gì khi tất cả những điều này hướng người ta đến sự thất vọng, mất hy vọng, những cảm giác tội lỗi, và thỉnh thoảng nghĩ đến sự tự sát.
Một lần nữa điều này và sự lo lắng phát sinh có liên quan đến sinh vật học khác đã được chẩn đoán, sự chữa trị về y khoa thường rất hiệu quả, đặc biệt khi nó được liên kết với việc tư vấn.
6. Những sự khác nhau riêng lẻ. Được biết – người ta phản ứng cách khác nhau đối với những trường hợp phát sinh lo lắng. Một số người hầu như chẳng bao giờ lo lắng cả, một số khác dường như luôn lo lắng, còn nhiều người khác thì ở trong tình trạng chính giữa. Một vài người bị lo lắng dưới sự đa dạng của nhiều tình trạng; những người khác tìm thấy chỉ một hoặc hai vấn đề tạo ra sự lo lắng về tương lai. Sự lo lắng trôi nổi-tự do – là loại lo lắng không có nguyên nhân rõ ràng – có một vài đặc điểm; những người khác lo lắng vì các mối nguy hiểm được nhận dạng rõ ràng. Sau đó, những lo lắng này cùng với sự lo sợ không bình thường khi ở trong một không gian đóng kín, như chứng sợ nước, và những chứng khác – những mối sợ hãi phi lý trong không gian đóng kín, nước, độ cao, hoặc những tình trạng khác, hầu hết trong sôd đó đều không nguy hiểm.
Tại sao những sự khác nhau này lại tồn tại? Có lẽ câu trả lời có trong các thuật ngữ từ sự học tập ở quá khứ của một người, cá tính, môi trường Xã hội, vật lý học, và lý thuyết học.
(a) Việc học tập. Hầu hết cách cư xử đều được học từ kinh nghiệm cá nhân, từ việc nhìn thấy nơi nhiều người khác, và từ sự dạy dỗ của cha mẹ và của những người khác. Những kinh nghiệm học tập này có thể gây ra sự lo lắng. Nếu một người mẹ lo lắng trong suốt cơn dông bão, đứa con trai nhỏ bé của bà sẽ tiếp nhận từ mẹ mình sự lo lắng. Nếu như bạn được dạy dỗ rằng sẽ là nguy hiểm khi ở một mình, bạn sẽ cảm thấy lo sợ khi không có ai khác ở nhà với mình. Một người đã thất bại trong một kỳ thi quan trọng sẽ lo lắng cho kỳ thi sắp tới. Nếu một ai đó yêu cầu nhiều hơn điều mà bạn có thể đem lại, bạn sẽ cảm thấy lo lắng khi có mặt người đó bên cạnh. Trừ khi tất cả chúng ta có những kinh nghiệm khác nhau, chúng ta sẽ nhìn thế giới theo một cách khác, không giống với tính thường xuyên và tính mạnh mẽ của những sự lo lắng của chúng ta.
(b) Cá tính. Cá tính xuất hiện đối với một vài người hay lo sợ và có sự “căng thẳng cao” hơn những người khác. Một vài người nhạy bén hơn, thiếu an toàn hơn, hay thù hằn hơn, tự cho mình là trung tâm, hoặc lo lắng hơn những người khác. Những cá tính khác nhau này xuất hiện từ một sự liên kết của những ảnh hưởng được thừa hưởng và từ sự học tập; lần lượt, chúng gây ra những sự khác nhau riêng lẻ cho sự lo lắng.
(c) Môi trường xã hội. Có người cho rằng hầu hết các sự lo lắng đến từ yếu tố xã hội như: sự bất ổn về chính trị, những xu hướng kinh tế, các giá trị thay đổi, sự di chuyển – tất cả đều có thể ảnh hưởng đến tình cảm của chúng ta về cội nguồn, sự thay đổi những tiêu chuẩn về đạo đức, hoặc sự quan ngại của chúng ta về tôn giáo. Những điều này không chỉ là những nguyên nhân tạo sự lo lắng, nhưng xã hội và những người láng giềng nơi chúng ta sinh sống cũng có thể kích thích sự lo lắng, hoặc cũng có thể đem lại một môi trường an toàn và làm sự lo lắng sẽ mất dần.
(d) Vật lý học. Khi chúng ta nhận thấy sự hiện diện của bệnh tật có thể kích thích căn bệnh lo lắng và do đó cũng có thể làm giảm đi sự thăng bằng; gây trục trặc về thần kinh, và những sự thay đổi hóa học bên trong. Điều trái ngược với nó cũng có thể xảy ra. Tất nhiên những sự thay đổi về vật lý học có thể gây ra sự lo lắng, vì thế sự lo lắng có thể gây ra những phản ứng về thể chất.
(e) Lý thuyết học. Niềm tin tạo ra một sức chịu đựng lớn vượt trên mức độ lo lắng của một người. Nếu như Đức Chúa Trời thật sự có quyền năng, đầy yêu thương, nhân từ, và Ngài điều khiển toàn bộ vũ trụ này (theo như sự dạy dỗ của Thánh Kinh), kế đến chúng ta mới có thể tin cậy và có sự an toàn ngay cả khi ở giữa sự rối loạn. Nếu như chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời tha thứ khi chúng ta xưng tội lội mình ra, Ngài hứa rằng chúng ta sẽ được tha tội và được ban cho sự sống đời đời, và Ngài sẽ chu cấp mọi nhu cầu của chúng ta trên đất, và dĩ nhiên chúng ta sẽ bớt lo lắng hơn.
Trong các sách Ngũ-kinh viết cho người Y-sơ-ra-ên, Môi-se đã liệt kê sự lo lắng như là một trong những hậu quả của sự không vâng lời Đức Chúa Trời. “Đức Giê-hô-va sẽ ban cho ngươi một tấm lòng run-sợ, mắt mờ yếu, và linh-hồn hao-mòn. Sự sống ngươi vẫn không chắc trước mặt ngươi; ngày và đêm ngươi hằng sợ-hãi, khó liệu bảo-tồn sự sống mình.”29
Như vậy, chúng ta không phải giả sử rằng sự lo lắng luôn luôn ám chỉ đến sự bất tuân hoặc do thiếu đức tin, và chúng ta cũng không thể kết luận rằng những người tin Chúa sẽ bớt lo lắng hơn những người không tin. Những nguyên nhân của sự lo lắng là quá phức tạp đối với những sự giải thích giản đơn như thế. Mặc dầu vậy, nếu như bạn muốn hiểu tại sao người ta phản ứng khác nhau trong nhiều cách mà họ kinh nghiệm, và họ đã giải quyết sự lo lắng thể nào, hãy cố gắng để phát hiện ra điều mà họ tin nơi Đức Chúa Trời và về thế giới mà Ngài đã tạo dựng.
CÁC HAU QUẢ CỦA SỰ LO LẮNG
Sự lo lắng không phải luôn là xấu. Cuộc sống không có lo âu, có thể sẽ là nhàm chán, không hiệu quả, và không nhiều niềm vui. Một số sự lo lắng hạn chế (không quá nhỏ, không quá lớn) kích thích người ta và tạo ra niềm say mê thích thú cuộc sống. Khi chúng ta chủ động trong các tình huống có thể gây ra sự lo lắng, điều này có thể là một kinh nghiệm tốt. Có lẽ đó là nguyên nhân giải thích tại sao một số người có thể sử dụng hàng giờ để đợi chờ có được “cảm giác sợ hãi của cái chết” từ một bộ phim kinh dị, hoặc cưỡi trên “con đại bàng đang la hét” khi chơi trò ú tim.
Tuy nhiên, khi sự lo lắng nhiều lên, kéo dài, hoặc không kiểm soát được, người ta bắt đầu kinh nghiệm được những phản ứng về thể chất, về vật lý học, sẽ bị yếu đi, những phản ứng đề kháng và năng lực thuộc linh cũng yếu dần.
(a) Những Phản ứng Về Thể chất. Đây là kiến thức chung – sự lo lắng có thể sản sinh ra những sự lở loét, các chứng đau đầu, ngứa ngáy, các chứng đau lưng, và rất nhiều vấn đề về thể chất khác. Hầu như mỗi người đều kinh nghiệm được sự đau bụng (“những con bươm bướm”), thở dồn dập, khó ngủ, mệt mõi, mất đi cảm giác ăn uống ngon miệng, và ít đi tiểu tiện hơn trong thời gian lo lắng. Một cách ít ý thức hơn là những sự thay đổi về huyết áp, sự căng cơ bắp, khó tiêu, và những sự thay đổi về hóa học trong máu. Nếu như những điều này chỉ là tạm thời thì chúng ít gây ra tác hại, nhưng nếu nhiều sẽ rất nguy hại. Khi chúng tồn tại lâu thì cơ thể sẽ bị rối loạn dưới sức ép của nó. Điều này là nguồn gốc của căn bệnh căng thẳng thần kinh (do tâm lý gây ra).
Sự nghiên cứu dựa trên các hậu quả của sự căng thẳng cho thấy những người bận rộn – là những người phải hoàn thành nhiều vấn đề nhưng lại cảm thấy bị áp lực bởi thời gian bị giới hạn – thân thể của họ thường mệt nhừ bởi sự sản sinh ra nhiều hóc-môn do tuyến thượng thận sinh ra làm tăng nhịp đập của tim và kích thích hệ thần kinh, gây nên một cảm giác hưng phấn. Điều này có trong thuật ngữ “căn bệnh stress,” một vài người đẩy chính mình vào chỗ ngã quỵ, và sau đó, thắc mắc tại sao cuộc sống bận rộn và nỗi lo lắng hướng họ đến cảm giác mệt nhòi, mất ngủ, và có dấu hiệu bị bệnh.30
(b) Những Phản ứng Về Tâm lý. Mỗi một người ít nhất đã trải qua một kỳ kiểm tra hoặc được gọi đi làm một công việc-nặng nhọc, đều biết rằng sự lo lắng có thể ảnh hưởng thế nào đến chức năng tâm lý. Sự lo lắng có thể làm giảm đi năng lực (vì thế chúng ta không hoàn thiện nhiều), ngăn cản các mối quan hệ cá nhân (vì thế chúng ta có rắc rối với những người khác), bóp nghẹt sự sáng tạo và nền tảng của mọi vật, làm mờ đục cá tính, và can thiệp vào khả năng tư duy hoặc trí nhớ về điều gì đó. Tâm trí của người sinh viên sẽ trở nên “trống rỗng” trong suốt một kỳ thi, hoặc người diễn viên sẽ quên mất vai diễn của mình trên sân khấu, cả hai loại người trên đều bộc lộ dấu hiệu thất bại do bộ nhớ sản sinh-lo lắng. Trong các trường hợp nghiêm trọng hơn, sự lo lắng nhiều khi làm bất động một cá nhân đến nỗi người này không thể có được tính độc lập như một người lớn.
(c) Những phản ứng đề kháng. Khi sự lo lắng xảy ra, hầu hết mọi người đều dựa vào cách cư xử và sự suy nghĩ vô thức mà nó làm mờ đục dần nỗi đau đớn của sự lo lắng và để đối diện dễ dàng hơn. Những phản ứng đề kháng như vậy thường được thấy trong việc tư vấn.31 Chúng bao gồm sự lờ đi những cảm giác lo âu, xem tình trạng sản sinh-lo lắng như không hề tồn tại, thuyết phục ai đó “không có gì phải lo lắng cả”, giải thích các triệu chứng một cách hợp lý, chỉ trích một người nào khác về các vấn đề của họ, nhấn mạnh những căn bệnh về thể chất để quên đi sự lo lắng, hoặc trượt vào những cách phản ứng như con trẻ. Thỉnh thoảng người ta thoát khỏi tình trạng nghiện ngập say sưa, ma túy, hoặc rút lui vào những loại bệnh tật về trí tuệ khác. Tất cả những điều này đều là những cách mà con người đang cố gắng đối diện.
(d) Những phản ứng thuộc linh. Sự lo lắng có thể thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự giúp đỡ thiên thượng, nói cách khác là sự giúp đỡ này có thể đã bị quên lãng. Mặc dầu những sự chuyển đổi hố cá nhân có thể ít giống nhau để chúng ta từng một lần suy nghĩ đến, nhưng có bằng chứng cho thấy nhiều người đã quay trở lại với Đức Chúa Trời trong thời gian bị căng thẳng.32
Thế nhưng sự lo lắng cũng có thể khiến chúng ta ra khỏi sự kiểm soát của Đức Chúa Trời vào lúc cần đến Ngài nhất. Bị lấp đầy bởi nỗi lo âu và xao lãng bởi những áp lực, ngay cả những người có niềm tin cũng nhận thấy mình dành ít thời gian cho sự cầu nguyện, giảm đi lòng khao khát hoặc khả năng tập trung vào việc đọc Kinh Thánh, giảm đi sự vui thích khi đi Nhà thờ để có được những buổi thờ phượng Chúa, chua cay cho rằng dường như Nước Trời yên lặng trước sự khủng hoảng mà họ đang đối diện, và giận dữ bởi vì Đức Chúa Trời dường như đặt để những điều ác xảy ra cho những người thiện. Người tư vấn Cơ Đốc có thể được hoan nghênh như là một mục sư thuộc linh, hoặc cũng có thể bị từ chối bởi vì mục sư là người đại diện cho Đức Chúa Trời, là Đấng đã cho phép những sự căng thẳng ấy xảy ra và Ngài bỏ qua không quan tâm đến.
TƯ VẤN VÀ LO LẮNG
Thật không dễ để tư vấn người hay lo âu, đặc biệt là vì họ khó có thể che đậy và giải quyết các nguyên nhân gây ra sự lo lắng, thêm vào đó bởi sự lo lắng có thể là một hình thức lây nhiễm tâm lý. Những người lo lắng thường làm cho người khác cũng lo lắng, bao gồm cả người tư vấn là người đang cố gắng giúp đỡ. Vì thế để tư vấn những người lo lắng, người tư vấn trước hết phải cảnh giác với những cảm giác của mình.
1. Nhận ra những sự lo lắng riêng của người tư vấn. Khi bạn là một người tư vấn, cảm thấy lo âu khi thấy vẻ mặt đầy lo lắng của người được tư vấn, bạn có thể tự hỏi chính mình một số câu hỏi: Tình huống này đang làm tôi lo lắng điều gì? Có phải người được tư vấn lo âu về điều khiến tôi cũng lo lắng chăng? Sự lo lắng của tôi nói lên điều gì về người được tư vấn và về chính bản thân tôi? Bằng cách xem xét sự lo lắng riêng tư của một người, thỉnh thoảng có khả năng nhận được sự khôn ngoan từ sự lo lắng của người được tư vấn. Những câu hỏi này cũng có thể làm cho người tư vấn kiểm soát được sự hoang mang do những lo lắng của họ cùng với những sự lo lắng của người được tư vấn.33
2. Độ căng êm dịu. Sự tư vấn dường như không có hiệu quả nếu như người được tư vấn quá tập trung cách căng thẳng. Để giải quyết sự căng thẳng này, hãy để người được tư vấn nhận thấy bạn là một người nhẹ nhàng, mềm mại, quan tâm và quyết đoán. Khích lệ người được tư vấn ngồi yên lặng, thở sâu, và cố gắng để thư giãn cơ thể. Đôi khi điều này sẽ giúp các nhóm cơ bắp khác nhau kết chặt với nhau hơn, chẳng hạn như nấm tay hoặc đôi vai, và sau đó hãy để các cơ bắp thư giãn thoải mái khi có thể. Một vài người được tư vấn nhận thấy điều này có ích cho họ khi nhắm mắt lại và tưởng tượng như họ đang thư giãn trên bãi biển hoặc đang ngồi trong một tình huống không chút sợ hãi nào khác.34 Cố gắng giảm đi những ảnh hưởng làm cho ta phân tâm, chẳng hạn như có quá nhiều thứ vứt lung tung trong văn phòng, hoặc trong khi nghe nhạc có cường độ cao, hay khi xung quanh có tốc độ nhanh.
Không có điều gì trong những điều trên làm thay đổi cách giải thích về nguyên nhân của sự lo lắng, thế nhưng bằng cách giúp đỡ người khác bạn sẽ cảm thấy thư thái hơn và ở trong sự kiềm chế, bạn cần hướng sự chú ý khỏi các triệu chứng. Sau đó, những người được tư vấn sẽ cảm thấy tốt hơn và họ lại có thể tập trung sự chú ý của mình trên những nguồn của sự lo lắng.
3. Thể hiện tình yêu thương. Tình yêu thương được gọi là tác nhân chữa lành lớn nhất trong tất cả,35 thế nhưng chẳng có gì tốt hơn để làm giảm đi nỗi sợ hãi và lo lắng là phải thành thật. Kinh Thánh chép rằng “sự yêu-thương trọn-vẹn thì cất-bỏ sự sợ-hãi.”36 Một người tư vấn nổi tiếng đã nói “Kẻ thù của sự sợ hãi là sự yêu thương.” “Cách để bỏ đi sự sợ hãi là biết yêu thương. . . . Tình yêu thương là sự tự-ban cho; sự sợ hãi là sự tự-bảo vệ mình. Tình yêu thương hướng ta đến những người khác; sự sợ hãi khiến ta tự trốn chạy. . . . Càng sợ hãi, thì ít yêu thương hơn; càng yêu thương, sợ hãi ít hơn.”37 Người tư vấn có thể giúp đỡ để đem sự sợ hãi và lo lắng đi khỏi khi họ thể hiện tình yêu thương cùng với sự hiểu biết cách kiên nhẫn. Những người được tư vấn có thể được giới thiệu về tình yêu thương và nhận được sự giúp đỡ từ Đấng Christ,38 và những người lo lắng cũng có thể tìm thấy sự thư thái khi họ được khích lệ để đạt đến những hành động biết yêu thương những người khác.
4. Những nguyên nhân được nhận biết. Sự lo lắng và sự sợ hãi là những cảm xúc được Đức Chúa Trời tạo dựng. Chúng cảnh báo mối nguy hiểm hoặc những mâu thuẫn từ bên trong và chỉ biến mất khi có sự đáp ứng trước những sự tái khẳng định của người tư vấn hoặc khi tình yêu thương Cơ Đốc được bày tỏ. Người giúp đỡ nhạy bén không thúc giục người được tư vấn “nhanh lên”, hoặc “hãy ngưng lo lắng đi.” Hầu hết chúng ta không nhận được sự giúp đỡ nào nếu nói đến ý nghĩa của nó, thế nhưng Cơ Đốc Nhân thật lại nói rằng sự lo lắng là một tội mà nó có thể ngăn chặn ước muốn. Thay vì thế, người tư vấn hiệu quả tìm kiếm để trợ giúp người được tư vấn trong tình huống khó khăn không thể che đậy các nguồn lo âu. Điều này có thể hoàn tất trong một vài cách.
(a) Quan sát. Trong những lãnh vực tư vấn phải chăng người được tư vấn cung cấp thêm bằng chứng về sự lo lắng (thay đổi vị trí, thở sâu, đổ mồ hôi) khi các chủ đề cụ thể nào đó được thảo luận chăng? Các chủ đề này là gì?
(b) Sự phản ánh. Người được tư vấn có thể nhận định các tình huống đã trải qua, hoặc việc xuất hiện sự lo lắng gần đây không? Điều này có thể giúp ích khi được hỏi, “Khi nào bạn lo lắng nhất?” “Khi nào bạn không lo lắng?” “Lần cuối cùng mà bạn đã cảm thấy thật sự lo lắng là khi nào?” Cái gì đã xảy ra cho cuộc sống của bạn lúc ấy?” Đừng bao giờ đánh giá thấp sự khôn ngoan của người được tư vấn về các nguyên nhân khiến cho họ phải lo lắng.
(c) Tư duy sâu lắng. Như là một người tư vấn, nhắc nhở chính mình về các nguyên nhân gây ra lo lắng đã được liệt kê trong những trang trước. Hãy tự hỏi chính mình về bất kỳ một nguyên nhân nào có thể gây ra sự lo lắng cho người được tư vấn. Đưa ra vài chủ đề nào đó và xem xét các dấu hiệu của sự lo lắng khi người được tư vấn trả lời các câu hỏi của bạn. Sau đó thảo luận về những cảm nhận của bạn.
Trong tất cả những điều này, cần lưu ý đến sự cần thiết phải nhẫn nại và tinh tế. Với tính chất rất tự nhiên, sự lo lắng thường xuất hiện khi đối diện trước các mối đe dọa mơ hồ và khó để nhận biết. Bằng cách thúc ép người được tư vấn “thôi đi” hoặc “mau lên, hãy nói cho tôi biết điều sai trái ấy đi”, chúng ta vô tình làm tăng thêm sự lo lắng, càng gây ra lúng túng hơn, và có nguy cơ làm mất dần hoặc khiến người lo lắng ấy lánh xa. Thật là quan trọng để một lần nữa, nhấn mạnh sự nhẫn nại về tình cảm.
5. Có những sự can thiệp. Sự lo lắng của mỗi người khác nhau: mỗi người có thể có một số triệu chứng nhất định và có những hình thức khác nhau để chữa trị. Chẳng hạn như một người nào đó luôn lo sợ khi nói trước công chúng, có thể không giống như người e ngại độ cao, hoặc như người bị tấn công bởi các nỗi sợ hãi dường như rất phi lý bất ngờ xảy ra.39
Mặc dầu có những sự khác biệt, nhưng David Sheehan, một chuyên gia về chứng lo lắng đã cho rằng – một sự thành công để chữa trị có thể được chấp nhận cho tất cả mọi người.40
a. Sự can thiệp của Thánh Kinh. Như chúng ta đã thấy, sự lo lắng thỉnh thoảng có một nguyên nhân về vật lý và các nhu cầu chữa trị về y khoa. Thông thường, một nhà vật lý sẽ làm việc chung với một người tư vấn không chuyên về y khoa.
Sự cộng tác này có nên bao gồm cả việc kê ra các loại thuốc để làm giảm sự lo lắng không? Một vài nhà tâm thần học và các nhà vật lý khác, nhanh chóng kê ra các loại thuốc mà rất có thể không cần dùng đến; một vài mục sư và những người tư vấn Cơ Đốc khác cũng nhanh chóng chỉ trích cách sử dụng các loại thuốc này khi họ có thể giúp người được tư vấn bình tĩnh trở lại, và làm cho việc tư vấn dễ dàng hơn. Cố gắng để cùng làm việc với một nhà vật lý, là người cẩn thận về cách sử dụng liều lượng thuốc an thần, và cũng là người sẵn sàng để kê ra các loại thuốc và hướng dẫn cách sử dụng những loại thuốc này khi sự lo lắng có vẻ như ở mức cao. Một vài người được tư vấn có thể cần sự giúp đỡ trong việc hồi phục sức đề kháng hoặc có thành kiến chống lại cách sử dụng các loại thuốc.
b. Sự can thiệp về các ứng xử. Cách đây một vài năm, phép chữa bệnh về cách ứng xử đã được giới thiệu như là một hình thức chữa trị xuất hiện một cách hiệu quả, đặc biệt cho những người hay lo lắng thái quá. Điều này đặt nền tảng trên giả thuyết cho rằng các sự đáp ứng trước sự lo lắng thường xuyên có được là do học tập, những người tư vấn cố gắng dạy người khác làm thế nào để thư giãn hiệu quả trong khi các tình trạng lo lắng tăng dần. Ví dụ, thỉnh thoảng những người được tư vấn có thể được dạy dỗ để thư giãn về thể chất, sau đó họ có thể trình bày những gì khiến họ sợ hãi một cách chậm chạp. Vào những lúc khác, những người được tư vấn có thể được khuyến khích để hành động (giả đò) giống như thể họ đang ở trong tình trạng lo lắng, và người tư vấn có thể dạy họ những cách đối phó hiệu quả. Những kỹ thuật như những cách này vẫn còn được sử dụng một cách rộng rãi và thành công. Chúng được áp dụng hiệu quả nhất khi sự lo lắng được phát hiện là đang gia tăng bởi một vật hay một tình huống cụ thể nào đó mà người được tư vấn có thể học tập để kiểm soát.41
c. Sự can thiệp của môi trường. Đôi khi cách tốt nhất và trực tiếp nhất để giải quyết sự lo lắng là thay đổi cách sống của một người, thay đổi các mối quan hệ, nơi ở, hoặc công việc. Chẳng hạn, hãy xem xét kẻ phạm pháp đang lo lắng về việc hắn có thể bị bắt. Sự lo lắng của người này có thể đánh giá với việc trở thành một người công dân đang phục tùng-luật pháp. Có lẽ ít rõ ràng, và ít có các sự thay đổi nào khác mà người được tư vấn có thể có để thay đổi các tình trạng hoặc trường hợp phát sinh-lo lắng? Những sự thay đổi như thế có thể cần được khích lệ và sự hướng dẫn đến từ một người tư vấn đầy nhiệt tình.
6. Hành động khích lệ. Mục đích tư vấn không phải để đánh giá tất cả các sự lo lắng. Thay vì thế, mục đích là để trợ giúp những người được tư vấn phát hiện ra các nguồn gây cho họ lo lắng. Kế đến, họ phải học tập làm thế nào để đối diện với chúng. Giúp đỡ những người được tư vấn thấy rõ hơn làm thế nào để đạt được sự đối đầu với chúng và cố gắng khắc phục sự lo lắng ấy – mặc dầu điều này có thể là mạo hiểm – hơn là tìm cách kháng cự lại trường hợp có sự thúc đẩy bên trong có thể giống như nó nhưng lại đau đớn. Khích lệ những người được tư vấn chấp nhận các sự lo lắng về tương lai của họ, nhưng sau đó dự tính điều phải được hoàn tất nếu như họ có thể giải quyết các tình huống làm gia tăng-lo lắng. Có phải có những kỹ năng hoặc những mẫu thông tin mà người được tư vấn cần có trước khi hành động chăng? Cố gắng tránh đề cập về lãnh vực trí tuệ, có thể là chính xác nhưng lại không có ích cho người khác – khi họ dự tính nói hoặảctực tiếp hành động cách cụ thể để giải quyết sự lo lắng. Một lúc nào đó bạn có thể sẽ muốn đề nghị một sự khích lệ thực tế nào đó liên quan đến một sự vui vẻ để thực thi khi chúng ta đang lo lắng và sợ hãi.
7. Đem lại sự ủng hộ. Trước đó điều này đã được đề cập – những người được tư vấn hay lo lắng nhận rất ít sự giúp đỡ từ những người tư vấn nóng tính và thiếu kiên nhẫn. Thay vì thế, người giúp đỡ phải từ tốn, nhiệt tình, và kiên nhẫn khi xem xét tiến trình dầu có thể là rất chậm chạp. Thỉnh thoảng dường như không thể có những người được tư vấn có khả năng hành động chống lại các sự lo lắng của họ. Những lúc như thế họ cần cảm thấy được ủng hộ, quan tâm chăm sóc từ mối quan hệ của một người tư vấn hiểu biết.
8. Khích lệ một sự đáp ứng Cơ Đốc. Kinh Thánh đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng và cụ thể, nhưng không nhất thiết phải liên tục để khắc phục căn bệnh lo lắng. Trong Phi 4:6, chúng ta được dạy rằng không nên lo lắng về bất kỳ điều gì. Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta không thể không lo lắng bởi sự chi phối của lý trí. Sự cố gắng cân nhắc như thế hướng sự chú ý của chúng ta đến các nan đề và có thể làm gia tăng thay vì giúp giảm đi sự lo lắng. Cần có một mục đích tốt hơn là để tập trung các hành động và suy nghĩ nhằm làm giảm sự lo lắng. Kinh Thánh cũng cho biết điều này có thể hoàn tất, và Kinh Thánh cũng đưa ra một công thức để chia sẻ thể nào với những người được tư vấn:
a. Vui mừng. Đây là một mệnh lệnh, được nhắc lại hai lần trong Phi 4:4. Khi thế gian tối tăm và đầy sự sợ hãi, Cơ Đốc Nhân vẫn có thể “vui mừng trong Chúa”. Hãy làm điều này bởi vì Chúa Jêsus đã hứa rằng Ngài chẳng bao giờ rời bỏ chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta sự bình an, Ngài sẽ ban Đức Thánh Linh (Đấng mà Đức Chúa Jêsus gọi là Đấng Yên-ủi/Người Tư vấn) ở với chúng ta và nhắc nhở chúng ta về những lẽ thật mà chúng ta cần ghi nhớ, và Ngài sẽ trở lại để đem những người tin Ngài đến một nơi đã được chuẩn bị trước cho chúng ta trên thiên đàng. Với sự nhận biết này, chúng ta có thể tin cậy Đức Chúa Trời và Ngài sẽ không để tâm trí của chúng ta bị bắt bớ hoặc bị sợ hãi đâu.42
b. Hãy dịu dàng. Tiếng Hy-lạp được dịch là “nết nhu-mì” trong Phi 4:5 – không có một từ tương đương thực sự nào trong tiếng Anh cả. Nó có nghĩa: hãy cho mọi người đều biết lòng nhơn từ, ngọt ngào, nết nhu-mì, thái độ ân cần, tử tế của anh em.43 Những tính chất này không đến cách tự nhiên. Chúng đến từ sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời; nhưng khi chúng ta sống, chúng ta điều khiển những định hướng chúng ta để phán xét người khác, hoặc đòi hỏi những quyền hạn của chúng ta. Một cái nhìn phán xét tiêu cực về cuộc sống sẽ gây ra sự lo lắng; một thái độ chịu đựng trong sự nhân từ sẽ làm giảm sự lo lắng.
c. Cầu nguyện. Phi 4:6 đưa ra các chỉ dẫn về lời cầu nguyện trong lúc lo lắng. Lời cầu nguyện như thế có thể bao gồm mọi thứ (ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất), nên bao gồm những lời cầu xin rõ ràng và cô đọng, và nên gắn liền với sự cảm tạ về lòng nhơn từ của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh hứa rằng “nếu như bạn làm theo điều này, bạn sẽ kinh nghiệm được sự bình an của Đức Chúa Trời, và sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết.” Rõ ràng rằng lời cầu nguyện này là một thứ thuốc giải độc quan trọng đối với sự lo lắng.
d. Suy nghĩ. Sự lo lắng thường đến khi chúng ta suy nghĩ liên tục về sự yếu đuối của con người chúng ta, những ảnh hưởng của điều ác trong thế gian, và những thứ có thể là sai trái. Vì thế trong Phi 4:8 dạy chúng ta hãy để tâm trí mình ở trong những ý tưởng tích cực, bao gồm: điều chi chơn-thật, điều chi đáng tôn, điều chi công-bình, điều chi thanh-sạch, điều chi đáng yêu-chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhơn-đức đáng khen – thì anh em phải nghĩ đến. Điều này không đề nghị chúng ta từ chối các nan đề hoặc làm ngơ trước các mối nguy hiểm. Ngược lại, Kinh Thánh cho chúng ta biết bằng chứng rõ ràng về năng lực của sự suy nghĩ tích cực được đặt nền tảng trên Thánh Kinh.
e. Hành động. Sứ-đồ Phao-lô đặt chính mình ông như là một tấm gương cho hành động. “Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình-an sẽ ở cùng anh em.”45 Nhiệm vụ của Cơ Đốc Nhân là hãy làm theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, và việc để ngồi lắng nghe thì không đơn giản chút nào.46 Để giảm lo lắng liên quan tới sự vâng lời và cách cư xử thiên-thượng, ngay cả khi đang lo lắng.
NGĂN CHẶN SỰ LO LẮNG
Phi-líp 4 đưa ra một công thức cho việc ngăn chặn sự lo lắng cũng như một sự thành công để tư vấn. Khi người ta có thể vui mừng, nhu mì, cầu nguyện, suy gẫm, và hành động theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, có một tiến trình dẫn đến việc ngăn chặn và kiểm soát sự lo lắng.
Một nghiên cứu của phòng nhân sự quân đội đối với trách nhiệm trong cuộc chiến Việt Nam, đã tiết lộ về những cách khác nhau mà người ta chống lại chính sự lo lắng mình.47 Đầu tiên, có sự gia tăng về suy nghĩ cho mình là tự tin – niềm tin vào những khả năng của một người khi gặp những thử thách và các mối nguy hiểm trong cuộc sống. Thứ hai, có sự liên quan đến công việc và các hoạt động khác làm sự lo lắng phát triển hơn nữa nhưng lại quên đi nguyên nhân gây ra lo lắng. Điều này có thể là hữu ích trong việc ngăn chặn sự lo lắng thái quá, trừ khi công việc trở nên cực kỳ thú vị và là giải pháp để thoát khỏi các mối nguy hiểm thực sự trong cuộc sống. Thứ ba, cần tin tưởng vào khả năng và sự từng trải của các nhà lãnh đạo, là những người có thể giải tỏa được sự lo lắng. Thứ tư, có đức tin nơi Đức Chúa Trời.
1. Tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Người học tập để hằng ngày bước đi trong mối thông công với Đức Chúa Trời sẽ đồng ý với tác giả bài thánh ca “Tôi không biết tương lai sẽ thế nào, nhưng tôi biết Đấng nắm giữ tương lai mình”. Lời khẳng định này có thể đem lại sự bảo đảm lớn ngay cả khi người khác có khuynh hướng lo lắng.
Tuy nhiên, đôi khi một sự tin cậy như thế lại dẫn đến thái độ cố chấp, mù lòa về thực tế, hoặc từ chối trách nhiệm, hay hướng đến một sự cứng nhắc trong suy nghĩ về những trở ngại quan trọng để một người chấp nhận thay đổi các tình huống. Ngược lại, Kinh Thánh khuyến khích sự đối đầu thực tế với các nan đề và có những quyết định uyển chuyển. Điều này làm cho người ta trưởng thành và chấp nhận sự thay đổi hoặc những mối nguy hiểm, ngay cả khi họ duy trì lối giải thích đầy tự tin về quyền uy tối cao và sự khôn ngoan cả thể của một Đức Chúa Trời toàn năng.
2. Học tập để đối diện. Đối diện với những nguyên nhân gây lo lắng, trước và trong khi chúng xuất hiện, có thể giúp chúng ta ngăn chặn sự lo lắng phát triển. Một sự đối diện như thế liên quan đến những điều sau đây, mà mỗi điều có thể trở nên một phần trong lối sống của một người:
• Chấp nhận các nỗi sợ hãi, những điều không chắc chắn, những mâu thuẫn, và các sự lo lắng, khi chúng xuất hiện.
• Nói cho một người khác biết về những điều này – trên một nền tảng bình thường nếu như thấy cần thiết.
• Xây dựng lòng tự trọng.
• Sự nhận biết rằng sự chia rẻ gây ra sự đau đớn, cố gắng duy trì sự thông công với những người bạn phân rẽ, và xây dựng các mối quan hệ mới với những người khác.
• Tìm kiếm sự giúp đỡ từ Đức Chúa Trời và những người khác khi gặp các nhu cầu.
• Học tập để giao tiếp một cách hiệu quả hơn.
• Học tập các quy tắc và những kỹ thuật để thư giãn.
• Đánh giá định kỳ các sự ưu tiên, các mục đích sống, và việc sử dụng thì giờ của một người.48
3. Giữ những điều này trong viễn cảnh.
Bất kỳ khi nào chúng ta tìm thấy chính mình trong một tình huống đang bị đe dọa, đang bị thách thức, hoặc đang bị nguy hiểm bao vây, hầu hết chúng ta đều cân nhắc các tình huống và cố gắng quyết định làm thế nào để chúng ta có thể đối diện cách tốt nhất. Tiến trình này, thỉnh thoảng được gọi là “sự đánh giá liên quan đến nhận thức”, nó giúp giải thích tại sao hai người có thể nhìn cùng một tình huống nhưng lại có những cách đáp ứng rất khác nhau. Làm thế nào để chúng ta đánh giá một tình huống phụ thuộc nhiều vào quan điểm hoặc viễn cảnh của một người.
Có một vài bằng chứng cho thấy các đặc điểm cá tính ảnh hưởng đến những quan niệm. Một vài người có cái nhìn rất tiêu cực khi nhìn mọi việc; một số khác thì lạc quan hơn và có xu hướng đánh giá sự việc trong khía cạnh sáng sủa hơn của cuộc sống. Để giúp ngăn chặn sự lo lắng, chúng ta có thể khích lệ người khác (đặc biệt là những người có hướng tiêu cực) giữ một viễn cảnh thực tế rằng họ không luôn luôn kết luận nhanh về điều tồi tệ nhất có vẻ như sắp xảy ra.49
4. Tiến tới Những Người Khác.
Người ta có thể quan tâm đến những người khác và từng bước giúp đỡ họ có hướng để đối diện cách tốt nhất trước những áp lực và sự lo lắng của cuộc sống.50 Người ta đang giúp đỡ và chịu đựng những gánh nặng của người khác51 có thể là một trong những cách tốt nhất để điều khiển và ngăn chặn sự lo lắng.
NHỮNG KẾT LUẬN VỀ SỰ LO LẮNG
Nhiều người tư vấn tin rằng sự lo lắng là một phần căn bản của tất cả các nan đề về tâm lý; nó đi đôi với hầu hết các chủ đề được thảo luận trong các chương sau.
Sự lo lắng cảnh báo con người về mối nguy hiểm và những động lực thúc đẩy chúng ta hành động. Khi điều này gây ra sợ hãi hoặc làm bất động nhiều người, sự lo lắng rất nguy hại. Khi điều này thách thức chúng ta giải quyết cách hiệu quả hơn trước những thách thức của cuộc sống, thì điều đó rất có thể có ích.
Chúa Jêsus đã đặt tất cả những điều này trong viễn cảnh khi Ngài nói về sự lo lắng trong Bài giảng trên Núi. Đức Chúa Trời biết rõ các nhu cầu và các sự lo lắng của chúng ta, Chúa Jêsus đã khẳng định như thế. Nếu như chúng ta trước hết dâng những sự ưu tiên của cuộc sống mình cho Ngài, chúng ta có thể yên nghỉ chắc chắn trong các nhu cầu của chúng ta, vì chúng sẽ được cung cấp đầy đủ52 và sẽ không còn lo lắng nữa. Đây là một thông điệp giúp cho việc tư vấn Cơ Đốc được thống nhất.
Christian Counseling – Gary R]. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Beck, A. T., and G. Emery. Anxiety Disorders and Phobias: A Cognitive Perspective. New York: Basic Books,1985.
Benson, Herbert. Beyond the Relaxation Response. New York: Times Books,1984.*
Gittelman, Rachel, ed. Anxiety Disorders in Childhood. New York: Guildord,1986.
Last, Cynthia G., and Michel Hersen. Handbook of Anxiety Disorders. New York: Pergamon,1987.
May, Rollo. The Meaning of Anxiety. Rev. ed. New York: Norton,1977.
Osborne, Cecil. Release from Fear and Anxiety. Waco, Tex.: Word,1976.
Sheehan, David V. The Anxiety Disease. New York: Charles Scribner’s Sons,1983.*
Wilson, R. Reid. Don’t Panic: Taking Control of Anxiety Attacks. New York: Harper & Row,1986.*
ANXIETY
RON, một thanh niên hai mươi tuổi, khỏe mạnh, đẹp trai, và được nhiều người bạn của anh quí mến. Cho đến gần đây, anh đã được ghi tên vào học tại một trường cao đẳng Cơ Đốc ở miền Trung tây như là một sinh viên kinh tế; thế nhưng vào giữa năm thứ hai của khóa học ở trường cao đẳng, chỉ một tuần trước khi kết thúc khóa học, anh đã rút tên khỏi trường.
“Tôi đã không thể giải quyết được sự lo âu của mình”, anh đã nói với vị bác sĩ gia đình của anh sau khi lái xe về nhà. “Trong suốt các kỳ kiểm tra, tôi có thể toát mồ hôi lạnh, tâm trí tôi có thể trống rỗng, và tôi có thể quên hết mọi thứ mà tôi đã học. Sau khi học ở trường một thời gian, tôi không đi học ở các lớp giảng dạy nữa. Các thầy cô rất bối rối bởi vì tôi luôn e ngại mình có thể quên nhiều thứ có thể có trong bài kiểm tra. Vào cuối quý của khóa học, tôi đã cảm thấy không thoải mái ngay cả việc vào giảng đường. Tiếp theo, tôi không đi đến các tiệm cà-phê nữa bởi vì tôi e ngại mình có thể gặp một trong những thầy cô giáo của tôi ở đó. Thời gian cuối cùng ở trường, tôi hầu như e sợ là mình đã quá lo lắng, ngay cả việc rời căn phòng của tôi.”
Ron là một Cơ Đốc Nhân. Anh có một bảng câu gốc kẹp trong quyển Kinh Thánh của mình, ở trong Phi-líp 4 và anh có gạch dưới các câu 6 và 7: “Chớ lo-phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu-nguyện, nài-xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu-xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình-an của Đức Chúa Trời vượt-quá mọi sự hiểu-biết, sẽ gìn-giữ lòng và ý-tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ.”
Thế nhưng, mặc cho những lời cầu nguyện của mình, Ron vẫn cảm thấy không có sự bình an. Trái lại, anh cảm thấy sợ hãi như đang đi tìm một công việc, bây giờ anh đã rời khỏi trường. Anh ngẫm nghĩ, “Nếu như không có ai sẽ thuê anh?” “Nếu tôi tìm được một công việc và tôi lại không thể làm được công việc đó?” “Nếu như tôi lại lo lắng khi đi làm?”
Bác sĩ đã kê khai một vài loại thuốc nặng để chữa trị căn bệnh lo lắng cho Ron, và đề nghị anh tìm đến một người tư vấn. Những hiệu quả êm dịu của các loại thuốc an thần có thể làm cho Ron có được một cuộc hẹn cho việc tư vấn. Người tư vấn và Ron cùng nhau cố gắng để hiểu các nguyên nhân tạo sự lo lắng mạnh mẽ này. Có thể họ sẽ xem xét những cách để thư giãn và để đối diện với sự căng thẳng – bao gồm sự căng thẳng của một công việc mới.
Cha mẹ của Ron chấp nhận ý tưởng để cho anh được tư vấn, thế nhưng họ không đủ kiên nhẫn đối với sự cải thiện. Cha của anh là một thương gia có nhiều thành đạt-việc kinh doanh của ông ở Trung đông rất thành công, ông muốn thấy mọi thứ phải được thành công nhanh chóng. Ông rất ít kiên nhẫn với ý tưởng của người con trai của mình để nhìn thấy “một loại bác sĩ tâm thần nào đó”, và ông hy vọng rằng tất cả những nỗi lo âu của Ron sẽ sớm kết thúc.
Ron tin rằng cha mình cũng là nguyên nhân gây ra nhiều lo lắng riêng của anh. Anh cũng biết rằng sự lo lắng của anh có thể có một căn nguyên về thể chất. Thế nhưng anh cũng thắc mắc, nếu như nhiều vấn đề được áp dụng từ sức ép bởi ý nghĩa-tốt của anh, nhưng người cha của anh lại thiếu kiên nhẫn và thiếu nhạy bén.
Sự lo lắng, căng thẳng, sợ hãi, nỗi ám ảnh, tình trạng căng thẳng về tinh thần – những từ kỹ thuật này có những ý nghĩa khác nhưng chúng thường được sử dụng cách thay đổi từ bên trong để miêu tả một trong các vấn đề chung nhất của thế kỷ này. Nỗi lo âu được gọi là “cảm xúc chính thức của thời đại chúng ta”, nền tảng của mọi triệu chứng loạn thần kinh chức năng, và “hiện tượng tâm lý tỏa khắp hầu hết trong thời đại của chúng ta.” Điều này là sự tồn tại cũ kỹ cũng như sự tồn tại của con người, thế nhưng những sự phức tạp và nhịp sống hiện đại đã thức tỉnh chúng ta đối với sự hiện hữu của nó và có thể làm gia tăng ảnh hưởng của nó.
Nỗi lo âu là một cảm giác bên trong của sự lo lắng về tương lai, sự phức tạp, suy tư lo lắng, và/hoặc nỗi sợ hãi theo sau do sự thức tỉnh thể chất nặng nề. Trong những khoảng thời gian lo lắng, cơ thể thức tỉnh để cảnh giác, sẵn sàng để trốn chạy hoặc kháng cự lại. Tim đập nhanh hơn, huyết áp và sự căng cơ bắp tăng, các sự thay đổi về thần kinh và cơ hóa xuất hiện bên trong, thỉnh thoảng mồ hôi toát ra, và người ta có thể cảm thấy muốn ngất đi, tim đập thình thịch, và không thể thư giãn được. Sự lo lắng có thể gia tăng tùy theo sự nhận biết thế nào về từng mối nguy hiểm có thể xảy ra (nhiều nhà văn gọi điều này là “sự sợ hãi” hơn là gọi sự lo lắng), hoặc nó có thể xuất hiện trong phản ứng đối với một nỗi sợ hãi tưởng tượng hoặc không biết được. Loại lo lắng cuối rốt này được gọi là “tự do vô định”; người lo lắng có cảm giác một điều gì đó ghê ghớm sắp sửa xảy ra, thế nhưng người này không biết điều đó là cái gì và tại sao lại xảy ra.
Các loại khác nhau của sự lo lắng được nhận dạng bao gồm loại bình thường và dễ làm kích thích thần kinh, loại điều độ và mạnh mẽ, loại tình trạng và đặc điểm.
Loại lo lắng bình thường thỉnh thoảng xuất hiện trong tất cả chúng ta, thường xuất hiện khi có nỗi sợ hãi thật sự hoặc khi gặp tình huống nguy hiểm nào đó. Hầu hết sự lo lắng này thường cân xứng với mối nguy hiểm (sự sợ hãi càng lớn thì sự lo lắng lớn hơn). Đây là sự lo lắng mà ta có thể nhận ra, có thể kiểm soát được, và giảm được, đặc biệt là khi các tình huống thay đổi. Loại lo lắng dễ làm kích thích thần kinh liên quan tới những cảm giác do thổi phồng sự bất năng và nỗi khiếp sợ, ngay cả khi mối nguy hiểm là nhẹ hoặc không tồn tại. Nhiều người tư vấn tin rằng sự lo lắng này không thể đối diện một cách trung thực và cần được giải quyết một cách hợp lý, bởi vì nó có thể phát xuất từ những mâu thuẫn không nhận thức được bên trong con người. Để nhắc lại sự nhận định chính xác của Rollo May, thì sự lo lắng dễ làm kích thích thần kinh “không cân xứng đối với mối nguy hiểm khách quan, bởi vì có sự mâu thuẫn tâm linh bên trong nào đó có liên quan.”1
Sự lo lắng có thể khác nhau về mức độ và sự ảnh hưởng của nó. Loại lo lắng điều độ có thể được trông đợi và tạo sảng khoái. Thông thường loại lo lắng này có động lực, giúp đỡ người khác tránh được các tình huống nguy hiểm, và hướng dẫn đến hiệu quả gia tăng. Ngược lại, loại lo lắng mạnh mẽ thì căng thẳng hơn. Loại lo lắng này có thể làm rút ngắn thời gian quan tâm suy nghĩ của ai đó, gây mất tập trung, hay quên, hạn chế các kỹ năng đối phó, tác động đến việc giải quyết nan đề, ngăn chặn sự giao tiếp hiệu quả, thức tỉnh sự sợ hãi, và thỉnh thoảng gây ra những triệu chứng không tốt về thể chất như là chứng bại liệt, tim đập nhanh, hoặc các loại nhức đầu ghê ghớm.
Một nhà nghiên cứu về tâm lý học đã cho rằng sự lo lắng cũng có thể là một tình trạng hoặc một đặc điểm.2 Loại lo lắng tình trạng thường xuất hiện nhanh chóng, có thể hoặc không thể gây tác động mạnh mẽ, và ngắn. Đây là một phản ứng lo lắng về tương lai gần, rất nghiêm trọng khi có liên quan, nó xuất hiện trong tất cả chúng ta qua thời gian. Thường thường nó xuất hiện như là một sự phản ứng đối với nỗi sợ hãi nào đó, và đôi khi nó được kinh nghiệm như là một sự hứng thú.3 Ngược lại, loại lo lắng đặc điểm là một sự căng thẳng về cảm xúc ăn sâu vào tiềm thức, từng-hiện hữu, và còn tồn tại. Nó xuất hiện khi người ta luôn luôn lo lắng. Thường thì nó gây ra các chứng bệnh về thể chất, bởi vì cơ thể không thể thực hiện chức năng một cách hiệu quả khi tồn tại trong một tình trạng căng thẳng và thức tỉnh triền miên.
Hai loại khác của sự lo lắng thu hút nguồn dữ liệu và sự chú ý chuyên nghiệp trong suốt vài năm gần đây: những sự mất quân bình do sự căng thẳng vị trí-chấn thương (PTSD) vì căn bệnh lo lắng. Sự căng thẳng tột độ – như mâu thuẫn hay mối nguy hiểm trong quân ngũ, sự hãm hiếp, bạo lực, khủng bố, sự liên quan đến một tai nạn nghiêm trọng, bắt cóc, hoặc thiên tai - như là một trận bão lốc hoặc động đất, có thể là việc từ bỏ quyền thừa kế một tài sản, cuộc sống kéo dài trong lo lắng. Nhiều năm sau lần bị chấn thương, một vài người có những cơn ác mộng, những nỗi sợ hãi phi lý, sự thất vọng, lo lắng, và mất đi sự thú vị trong các hoạt động đã từng làm họ vui thích. Đối với những người này, sự lo lắng đã trở thành một cách sống theo sau sự nhận thức về một kinh nghiệm căng thẳng trước đó. Những sự mất quân bình do sự căng thẳng vị trí-chấn thương này xuất hiện thường xuyên ở những cựu chiến binh Việt Nam,4 thế nhưng họ đang trải qua những sự lo lắng có thể xảy ra cho bất kỳ ai trong chúng ta sau một kinh nghiệm chấn thương.
Căn bệnh lo lắng là một thuật ngữ được sử dụng để miêu tả những sự tấn công nghiêm trọng của nỗi sợ hãi, nguy hiểm và thình lình; thường đến từ những người bình thường, thường không được cảnh báo trước, và xuất hiện thường xuyên khi người ta ít trông chờ nhất. Ước tính năm phần trăm dân số, hầu hết là phụ nữ, kinh nghiệm những phản ứng sợ hãi này. Trong nhiều năm sự lo lắng này đã được ví như là một sự mất quân bình về tâm lý, nhưng khi chúng ta gặp, bấy giờ càng có nhiều bằng chứng chứng tỏ nguồn gốc của nó là thuộc lãnh vực sinh vật học.5
THÁNH KINH VÀ SỰ LO LẮNG
Trong Kinh Thánh, “sự lo lắng” được sử dụng trong hai cách, một là sự quan tâm trong sáng và hai là sự băn khoăn, hoặc lo lắng.
Sự lo lắng trong hình thức bày tỏ sự quan tâm thực tế không bị kết tội cũng không phải bị cấm đoán. Mặc dầu Phao-lô có thể viết, ông đã không quan tâm (lo lắng) về việc ông có thể bị đánh đòn, bị rét lạnh, bị đói, hoặc ở trong sự nguy hiểm; Phao-lô cũng nói rằng ông đã lo lắng (quan tâm) về hết thảy các Hội-thánh. Đây là sự quan tâm chân tình đến người khác, đã đặt một gánh nặng hàng ngày lên vị Sứ-đồ,6 và đã làm cho Ti-mô-thê cũng “lo lắng cách chân tình” (quan tâm và thú vị).7
Sự lo lắng như là sự băn khoăn và lo lắng có thể đã có trong tâm trí của người sáng tác các bài thánh ca khi ông viết: “khi tư tưởng bộn-bề trong lòng tôi, thì sự an-ủi Ngài làm vui-vẻ linh-hồn tôi.”8 Trong Bài giảng Trên Núi, Chúa Jêsus đã dạy rằng chúng ta không nên lo lắng về tương lai hoặc về những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, như là thức ăn và quần áo. Chúa Jêsus đã phán, chúng ta có một Cha trên trời, Ngài biết điều chúng ta cần và Ngài sẽ cung cấp.9 Trong các thư tín Tân Ước, Phi-e-rơ và Phao-lô cũng đã nói lên kết luận này. “Không lo lắng về điều gì cả,” chúng ta hãy đọc trong Phi-líp. Thay vì thế, các Cơ Đốc Nhân hãy dâng những nhu cầu của mình cho Đức Chúa Trời, với một thái độ biết ơn, trông chờ để được kinh nghiệm “sự bình-an của Đức Chúa Trời vượt-quá mọi sự hiểu-biết.”10 Chúng ta có thể ném tất cả mọi sự lo lắng cho Đức Chúa Trời bởi vì Ngài là Đấng chăm sóc chúng ta.11
Sự lo lắng như là sự băn khoăn và lo lắng xuất hiện khi chúng ta quay khỏi Đức Chúa Trời, lúc đó chúng ta sẽ hứng chịu các gánh nặng của cuộc sống trên chính chúng ta, và giả sử – ít nhất bởi những thái độ và hành động của mình, chúng ta sẽ một mình chịu trách nhiệm về cách giải quyết các nan đề của mình. Thay vì nhận biết sự tể trị và quyền năng của Đức Chúa Trời, hoặc “trước hết hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời và sự công-bình của Ngài”,12 nhiều người trong chúng ta – là những người tư vấn và những người được tư vấn – mặc vội sự tự tin-sự tin cậy tội lỗi và sự bận tâm với những áp lực của cuộc sống riêng của chúng ta.
Theo như Thánh Kinh, không có gì là sai khi ta thành thật đối diện và cố gắng giải quyết các nan đề có thể nhận biết được của cuộc sống. Làm ngểttước mối nguy hiểm là dại dột và sai trái. Nhưng cũng là sai và không lành mạnh, nếu ta lo lắng quá mức để ngăn chặn hoặc làm cho mọi việc bình thường. Những sự quan tâm tồn tại trong chúng ta phải được dâng lên cho Đức Chúa Trời với lời cầu nguyện, Ngài là Đấng có thể giải phóng chúng ta khỏi sự tê liệt của nỗi sợ hãi hoặc lo âu, và giúp chúng ta có thể giải quyết những nhu cầu một cách thực tế cho hết thảy những người khác và cho chính chúng ta.
Mỗi người đều biết rằng không dễ để “trục xuất sự lo lắng”,13 hoặc không dễ để “không lo lắng về bất kỳ điều gì.”14 Thật là khó để con người “ném những gánh nặng của họ cho Đức Chúa Trời”, thật khó để tin cậy nơi Đức Chúa Trời rằng Ngài biết các nhu cầu của họ, thật khó để trông đợi sự trợ giúp của Ngài và thật là khó để biết khi nào cần có trách nhiệm vào những lúc gặp tình huống khó khăn. Những người lo lắng thường là những người thiếu kiên nhẫn, họ là những người cần được giúp đỡ trong việc giải quyết những áp lực của họ một cách thực tế và trong lộ trình thời gian hoàn hảo của Đức Chúa Trời.
Người tư vấn Cơ Đốc có thể là một ví dụ điển hình về một người yên lặng tin cậy nơi Đức Chúa Trời khi cần các nhu cầu. Người tư vấn cũng có thể giúp đỡ những người được tư vấn thấy được những lời hứa của Đức Chúa Trời, nhận ra được quyền năng và sức ảnh hưởng của Ngài trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, và hành động đúng lúc. Đối với nhiều người được tư vấn, điều này cũng có ích nếu như họ có thể hiểu được các nguyên nhân và hậu quả của sự lo lắng tồn tại trong họ.
CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ LO LẮNG
Các sách giáo khoa tư vấn miêu tả một vài lý thuyết về các nguyên nhân của sự lo lắng. Trong một cuốn sách nhỏ có tiêu đề Nan đề lo lắng,15 chẳng hạn như, Freud đã thảo luận tình huống này trong những thuật ngữ theo quan điểm của ông rằng cá tính có ba phần: bản năng vô thức (id) bao gồm những bản năng mà chúng đòi hỏi sự mãn nguyện tức thời, cái tôi (ego) là nhận thức về thế giới bên trong và giữ cá tính trong sự giao tiếp với thực tế, và siêu kỷ (superego) là cảm giác mang tính đạo đức đúng và sai. Theo Freud, sự lo lắng xuất hiện (a) khi cái tôi thấy một nỗi sợ hãi rõ ràng đối với con người (điều này đã được gọi là sự lo lắng thực tế); (b) khi bản năng vô thức bắt đầu nhận quá nhiều năng lực đến nỗi nó đe dọa bao phủ cái tôi và khiến cho con người hành động với cách cư xử không thể chấp nhận được về tình dục và có sự tranh đấu về xã hội (loại lo lắng dễ làm kích thích thần kinh); hoặc (c) siêu kỷ nhận quá nhiều năng lực và khiến cho con người bị bao phủ bởi tội lỗi hoặc sự xấu hổ (sự lo lắng đạo đức). Các nhà văn sau này đã từ bỏ quan điểm này của Freud và đã thấy rằng sự lo lắng xuất hiện từ sự đấu tranh thuộc bản năng bên trong và hơn thế nữa đôi khi là kết quả của những sức ép về văn hóa hay những sự đe dọa từ thế giới mà chúng ta đang sống. Về sau đã xuất hiện một sự nhấn mạnh trong việc học tập, với lời đề nghị rằng sự lo lắng là một tình huống mà chúng ta có được qua sự quy định.16 Các nhà văn gần đây hơn đã tập trung sự chú ý trên nền tảng sinh vật học của sự lo lắng.17
Việc xem xét kỹ càng những điều này cùng các lý thuyết khác giúp chúng ta có thể kết luận rằng sự lo lắng xuất hiện từ mối đe dọa, sự mâu thuẫn, nỗi sợ hãi, những nhu cầu không thích đáng, chức năng, và những sự khác nhau riêng lẻ.
1. Sự đe dọa. Về sau, nền văn học có một khái niệm sâu-sắc, nhà tâm lý học Rollo May đã kết luận rằng sự lo lắng luôn được biểu lộ ra từ một sự đe dọa cho ai đó để làm một điều mà cá nhân ấy phải cân nhắc điều gì là quan trọng. 18 Thỉnh thoảng sự lo lắng xuất hiện bởi vì cuộc sống của người nào đó bị đe dọa. Thông thường, chúng ta cảm thấy bị đe dọa (và vì thế chúng ta lo lắng) vì sự nguy hiểm nào đó, do mất tự tin và sự kính trọng từ những người khác, sự xói mòn của các giá trị của chúng ta, hoặc sự tác động của những ảnh hưởng vô thức.
(a) Mối nguy hiểm. Tội ác, chiến tranh, bầu không khí đầy bạo lực, các loại bệnh tật không được trông đợi và không thể giải thích được, ngay cả các cuộc viếng thăm nha sĩ, tất cả đều có thể đe dọa nhiều cá nhân và gây ra lo lắng. Thỉnh thoảng, hầu hết mọi người đều lo lắng về việc tìm kiếm công việc làm, khi đọc bài diễn văn, hoặc làm bài kiểm tra. Sự lo lắng về tương lai này xuất hiện bởi vì người ta không chắc về điều mình trông mong và cảm thấy bất lực để ngăn chặn hoặc làm giảm đi sự đe dọa.
(b) Sự tự đánh giá chính mình. Hầu hết mọi người đều thích nhìn mặt tích cực và thể hiện tài năng của mình. Chúng ta cảm thấy bị đe dọa bởi bất kỳ điều gì có thể làm hại đến hình ảnh của mình và ám chỉ (đến những người khác hoặc đến chính chúng ta) rằng chúng ta không thực sự tài giỏi. Nhiều người tự nhận thức về một sự lo lắng nhỏ trong các tình huống mới từ Xã hội, bởi vì họ không chắc chắn phải hành động thể nào hoặc lo ngại về phản ứng của những người khác. Trên một mức độ nghiêm trọng hơn, một vài người trốn tránh việc làm bài kiểm tra, tránh việc chấp nhận một sự tăng chức, hoặc tránh đi nguy cơ thất bại mang tính nguy hiểm, bởi vì khả năng không thành công là quá đe dọa đến sự tự đánh giá chính mình của họ.
(c) Sự chia rẽ. Chẳng bao giờ là dễ dàng để chia lìa với những người có ý nghĩa với mình. Việc bạn có thể hoang mang, và nỗi đau đớn khôn nguôi khi chúng ta xa rời hoặc từ chối một người tri kỷ. Cái chết của một người thân yêu, dời chuyển chỗ ở, sự ly dị, lời đính ước đổ vỡ – những vấn đề này và những sự chia rẽ khác có thể khiến chúng ta cảm thấy không chắc chắn về tương lai, bị buồn rầu bởi một khoảng trống xúc cảm trong lòng, và cảm thấy bất an khi chúng ta suy nghĩ “Tôi phải làm gì bây giờ?”
(d) Các giá trị. Nhiều người trong chúng ta sống tại các chế độ dân chủ có xu hướng đề cao giá trị tư tưởng tự do cá nhân. Điều này có thể đang đe dọa và đem lại-sự lo lắng; tuy nhiên, khi sự tự do và những thứ khác mà chúng ta đề cao mất đi sẽ tạo ra mối nguy hiểm phá hủy ngấm ngầm hoặc mất đi. Một công nhân thất bại để nhận được sự tiến thân có giá trị, cảm thấy bị đe dọa khi nghĩ mình thiếu khả năng để thành công và có thể thăng tiến về kinh tế. Một người con chối bỏ tôn giáo của gia đình hoặc từ chối các chuẩn mực truyền thống về tình dục dường như gây ra sự lo lắng (và thường là giận dữ) cho cha mẹ vì các giá trị của họ đang bị thách thức, và có lẽ bị đe dọa. Nếu một chính trị gia được tuyển chọn, trong một cương lĩnh chính trị mà nó trái ngược với các giá trị của chúng ta, điều này có thể làm cho bất kỳ ai trong chúng ta cảm thấy bị đe dọa và lo lắng.
(e) Những sự ảnh hưởng vô thức. Ngay cả với những người tư vấn từ chối nhiều học thuyết của Freud cũng đồng ý rằng những sự ảnh hưởng vô thức có thể là nền tảng của một sự lo lắng nào đó. Có quá nhiều (thực tế và tưởng tượng) mối nguy hiểm trong thế giới này mà hầu hết mọi người đều làm ngơ đi một vài sự căng thẳng mang tính tiềm ẩn và cố đẩy chúng ra khỏi tâm trí của họ. Điều này không có nghĩa là sai khi nó được hoàn tất một cách có chủ tâm và tạm thời, thế nhưng theo Freud, những sự đe dọa và những sự quan tâm được thúc ép cho những người vô thức có thể gây bứt rứt trong khi họ đang còn thiếu sáng suốt. Về sau, những ý tưởng vô thức này có thể chuyển hướng để trở thành có ý thức. Điều đó có thể đang đe dọa bởi vì sau đó chúng ta bị ép buộc phải đối diện với các nan đề mà chúng ta không hiểu được hoặc không biết phải giải quyết thế nào.
Chúng ta thử xem xét trường hợp của một chàng thanh niên trẻ tuổi đã bị nỗi lo lắng lớn chiếm ngự khi anh đang xem buổi biểu diễn múa ba-lê. Anh đã cảm thấy tốt hơn nên rời rạp hát, thế nhưng sau đó anh lại quyết định tìm đến sự tư vấn. Khi sự kiện đã được thảo luận, người tư vấn đã kết luận rằng anh thanh niên này đã có những xu hướng đồng tình luyến ái vô thức mạnh mẽ, anh đã tranh chiến khiến nó trở nên có ý thức. Trong suốt cuộc trình diễn, anh đã bị thu hút một cách vô thức đến các nam diễn viên múa ba-lê. Sự lo lắng đã ám ảnh và được anh suy nghĩ trong phản ứng trước mối đe dọa mà những sự cảnh giác của anh có thể bị gãy đổ, và thế là anh cho phép những xu hướng đồng tính luyến ái trở nên lộ rõ cho chính mình và đối với những người khác.
Một sự diễn giải như thế là trở ngại đầu tiên cho người tư vấn, và có sự bất đồng giữa những người tư vấn – Cơ Đốc và không phải là Cơ Đốc – về việc liệu có tồn tại những người vô thức hay không.19 Vì thế, nỗi sợ hãi của chàng thanh niên trẻ tuổi này là một ví dụ điển hình cho sự lo lắng mà nó xuất hiện để đáp ứng một tình huống cụ thể. Bằng cách xem xét thời gian và địa điểm khi sự lo lắng thức tỉnh, người tư vấn thường có thể nhận thấy dấu hiệu chú tâm đến vấn đề cụ thể đe dọa người được tư vấn.
2. Mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một nguyên nhân khác của sự lo lắng. Khi một người bị ảnh hưởng bởi hai hoặc nhiều áp lực, người đó sẽ có một cảm giác không chắc chắn mà lại thường hướng đến sự lo lắng.20 Hầu hết các sách về tâm lý đều cho rằng những mâu thuẫn đến từ hai hướng: sự tiếp cận và sự né tránh. Để tiếp cận cần có một xu hướng để làm điều gì đó hoặc để di chuyển trong một hướng đi nào đó sẽ làm hài lòng và vui vẻ. Việc né tránh là để kháng cự lại việc làm một điều gì đó, có lẽ bởi vì nó sẽ không làm hài lòng và vui vẻ. Có ba loại căn bản của những mâu thuẫn: tiếp cận-tiếp cận, tiếp cận-né tránh, và né tránh-tránh thoát.
(a) Mâu thuẫn Tiếp cận-Tiếp cận. Đây là một loại mâu thuẫn có xu hướng để theo đuổi hai mục đích khát khao nhưng là những mục đích xung khắc. Chúng ta có thể đối diện với hai lời mời ăn tối trong cùng một buổi tối, có thể chúng ta đều thích cả hai lời mời ấy. Thường thì rất khó để chúng ta có một quyết định trong trường hợp như vậy, và thỉnh thoảng điều này làm thức tỉnh sự lo lắng.
(b) Mâu thuẫn Tiếp cận-Né tránh. Đây là một sự khát khao để làm điều gì đó và không làm nó. Chẳng hạn như một người có thể vật lộn với khó khăn khi có một công việc mới. Để chấp nhận điều này, có thể đem lại nhiều cơ hội và lương bổng cao hơn (tiếp cận), thế nhưng điều này cũng có thể đem lại sự cần thiết phải di chuyển và sự bất lợi của một chương trình huấn luyện (sự tránh đi). Để có được một quyết định trong trường hợp đó có thể liên quan đến sự lo lắng vấn đề cần được cân nhắc.
(c) Né tránh-Tránh thoát. Ở đây có hai sự thay đổi, cả hai đều có thể không hài lòng: như việc sống với một căn bệnh đau đớn, ngược lại điều này là việc cần có một cuộc phẩu thuật – rất có thể là đau đớn lắm.
Hầu hết các mâu thuẫn đều liên quan tới một sự tranh chiến giữa hai hoặc nhiều sự thay đổi, mỗi một sự thay đổi có thể có sự tiếp cận và sự né tránh đi các đặc điểm. Chẳng hạn như một người trẻ tuổi có thể cân nhắc liệu có nên ở lại để tiếp tục làm công việc hiện tại hay không, hay chuyển đến một ví trí khác, hoặc quay trở lại trường học. Mỗi một sự thay đổi này đều có các lãnh vực khẳng định và phủ định, và sự lo lắng tồn tại cho đến khi có được sự lựa chọn. Thỉnh thoảng sự lo lắng kéo dài sau khi đã có quyết định, trong trường hợp một người xem xét mình đã có quyết định đúng hay không.
3. Sợ hãi. Mặc dầu có một vài người tư vấn phân biệt sự sợ hãi với sự lo lắng, tương tự như vậy một sự lo lắng về tương lai trong lòng mang cả hai đặc điểm.
Henri Nouwen đã viết rằng, chúng ta những người sống trong thế kỷ thứ hai mươi là một dân tộc sợ hãi.21 Trên các trang báo, tạp chí đầy ắp các vấn đề; và tâm trí chúng ta cũng không có tình yêu thương hoàn hảo để quăng đi nỗi sợ hãi ấy. Thay vì thế, mỗi chúng ta hướng sự quan tâm đến một loạt những nỗi sợ hãi của cá nhân chúng ta. Những người khác thì e ngại gặp thất bại, lo sợ về tương lai, về chiến tranh hạt nhân, sợ bị khước từ, sự thiếu tình thân, sự thành công, trách nhiệm, sự mâu thuẫn, sự vô nghĩa trong cuộc sống (thỉnh thoảng những điều này còn gọi là sự lo lắng tồn đọng), bệnh tật, sự chết, nỗi cô đơn, sự thay đổi,22 và một loạt những khả năng thực tế và tưởng tượng khác nữa. Thỉnh thoảng những nỗi sợ hãi này có thể hình thành trong tâm trí chúng ta và gây ra sự lo lắng tột cùng ngay cả khi không hề có bất kỳ một mối nguy hiểm thực tế nào xảy ra cả.
Theo một nghiên cứu khác, sự lo lắng thường xuất hiện bởi vì người ta có những niềm tin phi lý tạo ra sự sợ hãi. Khi những người được tư vấn kết luận rằng “mọi thứ chắc chắn tồi tệ hơn”, “không có điều gì có thể được hoàn tất để thay đổi những trường hợp của tôi cả”, hoặc “Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể đọc một bài diễn văn trước công chúng cả”; những sự tin như thế tạo ra sự sợ hãi tồn đọng trong họ. Để giúp đỡ những người này, những niềm tin phi lý như vậy cần phải được thách thức.”23
4. Những nhu cầu không thích đáng. Những nhu cầu căn bản của con người là gì? Mỗi chúng ta có thể có các câu trả lời khác nhau, nhưng một nhà văn24 đã cho rằng con người có sáu nhu cầu căn bản:
• Sự sống còn (nhu cầu để tiếp tục tồn tại).
• Sự an toàn (nhu cầu đối với sự ổn định về kinh tế cũng như về cảm xúc).
• Tình dục (nhu cầu để có sự thân mật gần gũi).
• Ý nghĩa (nhu cầu để tổng cộng mọi thứ lại và đánh giá chúng).
• Sự tự-hoàn thành (nhu cầu đạt được sự hoàn thành các mục đích).
• Tình trạng bản thân (nhu cầu để nhận biết về tình cảm).
Nếu như chúng ta thất bại khi gặp những nhu cầu này hoặc những nhu cầu khác, chúng ta có thể cảm thấy lo lắng, “cảm-thấy-như-đang-ở-trên-mây”, e ngại, và thất vọng.
Thế nhưng sẽ thế nào nếu như có được tất cả những nhu cầu này? Cuộc sống có thể hoàn tất, thỏa mãn, và không lo lắng chăng? Chắc hẳn không phải thế! Vẫn có những thắc mắc về cuộc sống được ban cho ở trên đất: Tôi sẽ đi đâu sau khi chết? Có phải sự tồn tại bao gồm chỉ một vài năm ngắn ngủi trên đất chăng? Mục đích cuộc sống của tôi là gì? Thỉnh thoảng những câu hỏi như thế này được gọi là những câu hỏi tồn đọng và chúng thường hướng đến sự lo lắng cần được cân nhắc. Có thể chúng ta không có sự tự do dài lâu từ loại lo lắng này cho đến khi chúng ta nhận được sự bình an của Đức Chúa Trời, chúng ta được an nghỉ trong lời hứa của Ngài đối với sự vĩnh hằng, và chúng ta nhận biết sự bình an chỉ đến khi tội lỗi của chúng ta được xưng ra và chúng ta được tha thứ hoàn toàn.25
5. Chức năng. Những nghiên cứu về y khoa chưa phát hiện được sự đa dạng của việc mất quân bình về thể chất mà chúng có thể đem lại sự lo lắng và các triệu chứng sợ hãi cho con người.26 Chẳng hạn như tình trạng hở mũ van tim là một sự bất bình thường không nghiêm trọng mấy của trái tim, nghiên cứu cho biết trong 15 phần trăm dân số mắc bệnh này chỉ có 5 người lớn, đặc biệt là phụ nữ. Hơn nửa những người này không thấy có triệu chứng khác biệt nào và cũng không cần sự chữa trị nào. Tuy nhiên, một số người khác có những triệu chứng đi kèm với sự sợ hãi: đau ngực, mệt mõi, choáng váng, thở dồi dập, tim đập nhanh, và có sự lo lắng cao độ.27
Nhà tâm thần học David Sheehan cho biết “căn bệnh lo lắng” phát sinh có liên quan đến sinh vật học như thế sẽ gây ra sự sợ hãi, sợ hãi sẽ làm rối loạn-cuộc sống cho hàng ngàn người.28 Sheehan đã cho biết có bảy giai đoạn lo lắng:
• Cá nhân dường như có sự lo lắng với các triệu chứng về thể chất (chẳng hạn như: đau đầu nhẹ, thở khó, mệt tim, đau ngực, khó thở, hoặc các bệnh đau đầu nặng) – chúng xuất hiện không có sự báo trước và không có nguyên nhân rõ ràng.
• Vào thời gian đó, các triệu chứng phát triển mạnh hơn và chúng xuất hiện dưới hình thức những sự tấn công mạnh mẽ vì sợ hãi – xuất hiện một cách vô ý thức và có thể xuất hiện một vài lần mỗi tuần.
• Không ngạc nhiên khi một người trở nên quá đỗi quan tâm đến cái chết của mình. Khi lo lắng về điều đang xảy ra cho thân thể mình, các bệnh nhân bắt đầu trông giống như những người lo lắng thái quá về sức khỏe của họ. Những người bạn và người thân nói với họ “thôi đi”, hoặc “hãy tin cậy nơi Đức Chúa Trời”, thế nhưng sự sợ hãi và những sự quan tâm về thể chất vẫn tồn tại trong suy nghĩ của họ.
• Nếu như những sự tấn công sợ hãi vẫn tồn tại, cá nhân bắt đầu phát triển những sự ám ảnh. Một người phụ nữ đã bị sự sợ hãi tấn công mỗi khi vào trong thang máy. Điều này đã làm cô quá sợ hãi đến nỗi cô trở nên e ngại để bước vào thang máy một lần nữa, và cô tự nhủ “nếu có chuyện gì xảy ra cho cô” thì thang máy có thể làm cho cô tái diễn sự sợ hãi.
• Kế đến, những sự ám ảnh về xã hội phát triển. E ngại khi gần gũi những người khác thì sự sợ hãi lại xuất hiện, và các bệnh nhân bắt đầu rút lui.
• Khi sự mất quân bình trở nên tồi tệ hơn, có người e ngại khi đi ra ngoài. Bất cứ nơi nào hoặc một sự kiện liên quan đến một sự tấn công trước đó hoặc có thể sẽ xảy ra trong tương lai, tốt nhất là cần phải tránh đi.
• Không ngạc nhiên gì khi tất cả những điều này hướng người ta đến sự thất vọng, mất hy vọng, những cảm giác tội lỗi, và thỉnh thoảng nghĩ đến sự tự sát.
Một lần nữa điều này và sự lo lắng phát sinh có liên quan đến sinh vật học khác đã được chẩn đoán, sự chữa trị về y khoa thường rất hiệu quả, đặc biệt khi nó được liên kết với việc tư vấn.
6. Những sự khác nhau riêng lẻ. Được biết – người ta phản ứng cách khác nhau đối với những trường hợp phát sinh lo lắng. Một số người hầu như chẳng bao giờ lo lắng cả, một số khác dường như luôn lo lắng, còn nhiều người khác thì ở trong tình trạng chính giữa. Một vài người bị lo lắng dưới sự đa dạng của nhiều tình trạng; những người khác tìm thấy chỉ một hoặc hai vấn đề tạo ra sự lo lắng về tương lai. Sự lo lắng trôi nổi-tự do – là loại lo lắng không có nguyên nhân rõ ràng – có một vài đặc điểm; những người khác lo lắng vì các mối nguy hiểm được nhận dạng rõ ràng. Sau đó, những lo lắng này cùng với sự lo sợ không bình thường khi ở trong một không gian đóng kín, như chứng sợ nước, và những chứng khác – những mối sợ hãi phi lý trong không gian đóng kín, nước, độ cao, hoặc những tình trạng khác, hầu hết trong sôd đó đều không nguy hiểm.
Tại sao những sự khác nhau này lại tồn tại? Có lẽ câu trả lời có trong các thuật ngữ từ sự học tập ở quá khứ của một người, cá tính, môi trường Xã hội, vật lý học, và lý thuyết học.
(a) Việc học tập. Hầu hết cách cư xử đều được học từ kinh nghiệm cá nhân, từ việc nhìn thấy nơi nhiều người khác, và từ sự dạy dỗ của cha mẹ và của những người khác. Những kinh nghiệm học tập này có thể gây ra sự lo lắng. Nếu một người mẹ lo lắng trong suốt cơn dông bão, đứa con trai nhỏ bé của bà sẽ tiếp nhận từ mẹ mình sự lo lắng. Nếu như bạn được dạy dỗ rằng sẽ là nguy hiểm khi ở một mình, bạn sẽ cảm thấy lo sợ khi không có ai khác ở nhà với mình. Một người đã thất bại trong một kỳ thi quan trọng sẽ lo lắng cho kỳ thi sắp tới. Nếu một ai đó yêu cầu nhiều hơn điều mà bạn có thể đem lại, bạn sẽ cảm thấy lo lắng khi có mặt người đó bên cạnh. Trừ khi tất cả chúng ta có những kinh nghiệm khác nhau, chúng ta sẽ nhìn thế giới theo một cách khác, không giống với tính thường xuyên và tính mạnh mẽ của những sự lo lắng của chúng ta.
(b) Cá tính. Cá tính xuất hiện đối với một vài người hay lo sợ và có sự “căng thẳng cao” hơn những người khác. Một vài người nhạy bén hơn, thiếu an toàn hơn, hay thù hằn hơn, tự cho mình là trung tâm, hoặc lo lắng hơn những người khác. Những cá tính khác nhau này xuất hiện từ một sự liên kết của những ảnh hưởng được thừa hưởng và từ sự học tập; lần lượt, chúng gây ra những sự khác nhau riêng lẻ cho sự lo lắng.
(c) Môi trường xã hội. Có người cho rằng hầu hết các sự lo lắng đến từ yếu tố xã hội như: sự bất ổn về chính trị, những xu hướng kinh tế, các giá trị thay đổi, sự di chuyển – tất cả đều có thể ảnh hưởng đến tình cảm của chúng ta về cội nguồn, sự thay đổi những tiêu chuẩn về đạo đức, hoặc sự quan ngại của chúng ta về tôn giáo. Những điều này không chỉ là những nguyên nhân tạo sự lo lắng, nhưng xã hội và những người láng giềng nơi chúng ta sinh sống cũng có thể kích thích sự lo lắng, hoặc cũng có thể đem lại một môi trường an toàn và làm sự lo lắng sẽ mất dần.
(d) Vật lý học. Khi chúng ta nhận thấy sự hiện diện của bệnh tật có thể kích thích căn bệnh lo lắng và do đó cũng có thể làm giảm đi sự thăng bằng; gây trục trặc về thần kinh, và những sự thay đổi hóa học bên trong. Điều trái ngược với nó cũng có thể xảy ra. Tất nhiên những sự thay đổi về vật lý học có thể gây ra sự lo lắng, vì thế sự lo lắng có thể gây ra những phản ứng về thể chất.
(e) Lý thuyết học. Niềm tin tạo ra một sức chịu đựng lớn vượt trên mức độ lo lắng của một người. Nếu như Đức Chúa Trời thật sự có quyền năng, đầy yêu thương, nhân từ, và Ngài điều khiển toàn bộ vũ trụ này (theo như sự dạy dỗ của Thánh Kinh), kế đến chúng ta mới có thể tin cậy và có sự an toàn ngay cả khi ở giữa sự rối loạn. Nếu như chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời tha thứ khi chúng ta xưng tội lội mình ra, Ngài hứa rằng chúng ta sẽ được tha tội và được ban cho sự sống đời đời, và Ngài sẽ chu cấp mọi nhu cầu của chúng ta trên đất, và dĩ nhiên chúng ta sẽ bớt lo lắng hơn.
Trong các sách Ngũ-kinh viết cho người Y-sơ-ra-ên, Môi-se đã liệt kê sự lo lắng như là một trong những hậu quả của sự không vâng lời Đức Chúa Trời. “Đức Giê-hô-va sẽ ban cho ngươi một tấm lòng run-sợ, mắt mờ yếu, và linh-hồn hao-mòn. Sự sống ngươi vẫn không chắc trước mặt ngươi; ngày và đêm ngươi hằng sợ-hãi, khó liệu bảo-tồn sự sống mình.”29
Như vậy, chúng ta không phải giả sử rằng sự lo lắng luôn luôn ám chỉ đến sự bất tuân hoặc do thiếu đức tin, và chúng ta cũng không thể kết luận rằng những người tin Chúa sẽ bớt lo lắng hơn những người không tin. Những nguyên nhân của sự lo lắng là quá phức tạp đối với những sự giải thích giản đơn như thế. Mặc dầu vậy, nếu như bạn muốn hiểu tại sao người ta phản ứng khác nhau trong nhiều cách mà họ kinh nghiệm, và họ đã giải quyết sự lo lắng thể nào, hãy cố gắng để phát hiện ra điều mà họ tin nơi Đức Chúa Trời và về thế giới mà Ngài đã tạo dựng.
CÁC HAU QUẢ CỦA SỰ LO LẮNG
Sự lo lắng không phải luôn là xấu. Cuộc sống không có lo âu, có thể sẽ là nhàm chán, không hiệu quả, và không nhiều niềm vui. Một số sự lo lắng hạn chế (không quá nhỏ, không quá lớn) kích thích người ta và tạo ra niềm say mê thích thú cuộc sống. Khi chúng ta chủ động trong các tình huống có thể gây ra sự lo lắng, điều này có thể là một kinh nghiệm tốt. Có lẽ đó là nguyên nhân giải thích tại sao một số người có thể sử dụng hàng giờ để đợi chờ có được “cảm giác sợ hãi của cái chết” từ một bộ phim kinh dị, hoặc cưỡi trên “con đại bàng đang la hét” khi chơi trò ú tim.
Tuy nhiên, khi sự lo lắng nhiều lên, kéo dài, hoặc không kiểm soát được, người ta bắt đầu kinh nghiệm được những phản ứng về thể chất, về vật lý học, sẽ bị yếu đi, những phản ứng đề kháng và năng lực thuộc linh cũng yếu dần.
(a) Những Phản ứng Về Thể chất. Đây là kiến thức chung – sự lo lắng có thể sản sinh ra những sự lở loét, các chứng đau đầu, ngứa ngáy, các chứng đau lưng, và rất nhiều vấn đề về thể chất khác. Hầu như mỗi người đều kinh nghiệm được sự đau bụng (“những con bươm bướm”), thở dồn dập, khó ngủ, mệt mõi, mất đi cảm giác ăn uống ngon miệng, và ít đi tiểu tiện hơn trong thời gian lo lắng. Một cách ít ý thức hơn là những sự thay đổi về huyết áp, sự căng cơ bắp, khó tiêu, và những sự thay đổi về hóa học trong máu. Nếu như những điều này chỉ là tạm thời thì chúng ít gây ra tác hại, nhưng nếu nhiều sẽ rất nguy hại. Khi chúng tồn tại lâu thì cơ thể sẽ bị rối loạn dưới sức ép của nó. Điều này là nguồn gốc của căn bệnh căng thẳng thần kinh (do tâm lý gây ra).
Sự nghiên cứu dựa trên các hậu quả của sự căng thẳng cho thấy những người bận rộn – là những người phải hoàn thành nhiều vấn đề nhưng lại cảm thấy bị áp lực bởi thời gian bị giới hạn – thân thể của họ thường mệt nhừ bởi sự sản sinh ra nhiều hóc-môn do tuyến thượng thận sinh ra làm tăng nhịp đập của tim và kích thích hệ thần kinh, gây nên một cảm giác hưng phấn. Điều này có trong thuật ngữ “căn bệnh stress,” một vài người đẩy chính mình vào chỗ ngã quỵ, và sau đó, thắc mắc tại sao cuộc sống bận rộn và nỗi lo lắng hướng họ đến cảm giác mệt nhòi, mất ngủ, và có dấu hiệu bị bệnh.30
(b) Những Phản ứng Về Tâm lý. Mỗi một người ít nhất đã trải qua một kỳ kiểm tra hoặc được gọi đi làm một công việc-nặng nhọc, đều biết rằng sự lo lắng có thể ảnh hưởng thế nào đến chức năng tâm lý. Sự lo lắng có thể làm giảm đi năng lực (vì thế chúng ta không hoàn thiện nhiều), ngăn cản các mối quan hệ cá nhân (vì thế chúng ta có rắc rối với những người khác), bóp nghẹt sự sáng tạo và nền tảng của mọi vật, làm mờ đục cá tính, và can thiệp vào khả năng tư duy hoặc trí nhớ về điều gì đó. Tâm trí của người sinh viên sẽ trở nên “trống rỗng” trong suốt một kỳ thi, hoặc người diễn viên sẽ quên mất vai diễn của mình trên sân khấu, cả hai loại người trên đều bộc lộ dấu hiệu thất bại do bộ nhớ sản sinh-lo lắng. Trong các trường hợp nghiêm trọng hơn, sự lo lắng nhiều khi làm bất động một cá nhân đến nỗi người này không thể có được tính độc lập như một người lớn.
(c) Những phản ứng đề kháng. Khi sự lo lắng xảy ra, hầu hết mọi người đều dựa vào cách cư xử và sự suy nghĩ vô thức mà nó làm mờ đục dần nỗi đau đớn của sự lo lắng và để đối diện dễ dàng hơn. Những phản ứng đề kháng như vậy thường được thấy trong việc tư vấn.31 Chúng bao gồm sự lờ đi những cảm giác lo âu, xem tình trạng sản sinh-lo lắng như không hề tồn tại, thuyết phục ai đó “không có gì phải lo lắng cả”, giải thích các triệu chứng một cách hợp lý, chỉ trích một người nào khác về các vấn đề của họ, nhấn mạnh những căn bệnh về thể chất để quên đi sự lo lắng, hoặc trượt vào những cách phản ứng như con trẻ. Thỉnh thoảng người ta thoát khỏi tình trạng nghiện ngập say sưa, ma túy, hoặc rút lui vào những loại bệnh tật về trí tuệ khác. Tất cả những điều này đều là những cách mà con người đang cố gắng đối diện.
(d) Những phản ứng thuộc linh. Sự lo lắng có thể thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự giúp đỡ thiên thượng, nói cách khác là sự giúp đỡ này có thể đã bị quên lãng. Mặc dầu những sự chuyển đổi hố cá nhân có thể ít giống nhau để chúng ta từng một lần suy nghĩ đến, nhưng có bằng chứng cho thấy nhiều người đã quay trở lại với Đức Chúa Trời trong thời gian bị căng thẳng.32
Thế nhưng sự lo lắng cũng có thể khiến chúng ta ra khỏi sự kiểm soát của Đức Chúa Trời vào lúc cần đến Ngài nhất. Bị lấp đầy bởi nỗi lo âu và xao lãng bởi những áp lực, ngay cả những người có niềm tin cũng nhận thấy mình dành ít thời gian cho sự cầu nguyện, giảm đi lòng khao khát hoặc khả năng tập trung vào việc đọc Kinh Thánh, giảm đi sự vui thích khi đi Nhà thờ để có được những buổi thờ phượng Chúa, chua cay cho rằng dường như Nước Trời yên lặng trước sự khủng hoảng mà họ đang đối diện, và giận dữ bởi vì Đức Chúa Trời dường như đặt để những điều ác xảy ra cho những người thiện. Người tư vấn Cơ Đốc có thể được hoan nghênh như là một mục sư thuộc linh, hoặc cũng có thể bị từ chối bởi vì mục sư là người đại diện cho Đức Chúa Trời, là Đấng đã cho phép những sự căng thẳng ấy xảy ra và Ngài bỏ qua không quan tâm đến.
TƯ VẤN VÀ LO LẮNG
Thật không dễ để tư vấn người hay lo âu, đặc biệt là vì họ khó có thể che đậy và giải quyết các nguyên nhân gây ra sự lo lắng, thêm vào đó bởi sự lo lắng có thể là một hình thức lây nhiễm tâm lý. Những người lo lắng thường làm cho người khác cũng lo lắng, bao gồm cả người tư vấn là người đang cố gắng giúp đỡ. Vì thế để tư vấn những người lo lắng, người tư vấn trước hết phải cảnh giác với những cảm giác của mình.
1. Nhận ra những sự lo lắng riêng của người tư vấn. Khi bạn là một người tư vấn, cảm thấy lo âu khi thấy vẻ mặt đầy lo lắng của người được tư vấn, bạn có thể tự hỏi chính mình một số câu hỏi: Tình huống này đang làm tôi lo lắng điều gì? Có phải người được tư vấn lo âu về điều khiến tôi cũng lo lắng chăng? Sự lo lắng của tôi nói lên điều gì về người được tư vấn và về chính bản thân tôi? Bằng cách xem xét sự lo lắng riêng tư của một người, thỉnh thoảng có khả năng nhận được sự khôn ngoan từ sự lo lắng của người được tư vấn. Những câu hỏi này cũng có thể làm cho người tư vấn kiểm soát được sự hoang mang do những lo lắng của họ cùng với những sự lo lắng của người được tư vấn.33
2. Độ căng êm dịu. Sự tư vấn dường như không có hiệu quả nếu như người được tư vấn quá tập trung cách căng thẳng. Để giải quyết sự căng thẳng này, hãy để người được tư vấn nhận thấy bạn là một người nhẹ nhàng, mềm mại, quan tâm và quyết đoán. Khích lệ người được tư vấn ngồi yên lặng, thở sâu, và cố gắng để thư giãn cơ thể. Đôi khi điều này sẽ giúp các nhóm cơ bắp khác nhau kết chặt với nhau hơn, chẳng hạn như nấm tay hoặc đôi vai, và sau đó hãy để các cơ bắp thư giãn thoải mái khi có thể. Một vài người được tư vấn nhận thấy điều này có ích cho họ khi nhắm mắt lại và tưởng tượng như họ đang thư giãn trên bãi biển hoặc đang ngồi trong một tình huống không chút sợ hãi nào khác.34 Cố gắng giảm đi những ảnh hưởng làm cho ta phân tâm, chẳng hạn như có quá nhiều thứ vứt lung tung trong văn phòng, hoặc trong khi nghe nhạc có cường độ cao, hay khi xung quanh có tốc độ nhanh.
Không có điều gì trong những điều trên làm thay đổi cách giải thích về nguyên nhân của sự lo lắng, thế nhưng bằng cách giúp đỡ người khác bạn sẽ cảm thấy thư thái hơn và ở trong sự kiềm chế, bạn cần hướng sự chú ý khỏi các triệu chứng. Sau đó, những người được tư vấn sẽ cảm thấy tốt hơn và họ lại có thể tập trung sự chú ý của mình trên những nguồn của sự lo lắng.
3. Thể hiện tình yêu thương. Tình yêu thương được gọi là tác nhân chữa lành lớn nhất trong tất cả,35 thế nhưng chẳng có gì tốt hơn để làm giảm đi nỗi sợ hãi và lo lắng là phải thành thật. Kinh Thánh chép rằng “sự yêu-thương trọn-vẹn thì cất-bỏ sự sợ-hãi.”36 Một người tư vấn nổi tiếng đã nói “Kẻ thù của sự sợ hãi là sự yêu thương.” “Cách để bỏ đi sự sợ hãi là biết yêu thương. . . . Tình yêu thương là sự tự-ban cho; sự sợ hãi là sự tự-bảo vệ mình. Tình yêu thương hướng ta đến những người khác; sự sợ hãi khiến ta tự trốn chạy. . . . Càng sợ hãi, thì ít yêu thương hơn; càng yêu thương, sợ hãi ít hơn.”37 Người tư vấn có thể giúp đỡ để đem sự sợ hãi và lo lắng đi khỏi khi họ thể hiện tình yêu thương cùng với sự hiểu biết cách kiên nhẫn. Những người được tư vấn có thể được giới thiệu về tình yêu thương và nhận được sự giúp đỡ từ Đấng Christ,38 và những người lo lắng cũng có thể tìm thấy sự thư thái khi họ được khích lệ để đạt đến những hành động biết yêu thương những người khác.
4. Những nguyên nhân được nhận biết. Sự lo lắng và sự sợ hãi là những cảm xúc được Đức Chúa Trời tạo dựng. Chúng cảnh báo mối nguy hiểm hoặc những mâu thuẫn từ bên trong và chỉ biến mất khi có sự đáp ứng trước những sự tái khẳng định của người tư vấn hoặc khi tình yêu thương Cơ Đốc được bày tỏ. Người giúp đỡ nhạy bén không thúc giục người được tư vấn “nhanh lên”, hoặc “hãy ngưng lo lắng đi.” Hầu hết chúng ta không nhận được sự giúp đỡ nào nếu nói đến ý nghĩa của nó, thế nhưng Cơ Đốc Nhân thật lại nói rằng sự lo lắng là một tội mà nó có thể ngăn chặn ước muốn. Thay vì thế, người tư vấn hiệu quả tìm kiếm để trợ giúp người được tư vấn trong tình huống khó khăn không thể che đậy các nguồn lo âu. Điều này có thể hoàn tất trong một vài cách.
(a) Quan sát. Trong những lãnh vực tư vấn phải chăng người được tư vấn cung cấp thêm bằng chứng về sự lo lắng (thay đổi vị trí, thở sâu, đổ mồ hôi) khi các chủ đề cụ thể nào đó được thảo luận chăng? Các chủ đề này là gì?
(b) Sự phản ánh. Người được tư vấn có thể nhận định các tình huống đã trải qua, hoặc việc xuất hiện sự lo lắng gần đây không? Điều này có thể giúp ích khi được hỏi, “Khi nào bạn lo lắng nhất?” “Khi nào bạn không lo lắng?” “Lần cuối cùng mà bạn đã cảm thấy thật sự lo lắng là khi nào?” Cái gì đã xảy ra cho cuộc sống của bạn lúc ấy?” Đừng bao giờ đánh giá thấp sự khôn ngoan của người được tư vấn về các nguyên nhân khiến cho họ phải lo lắng.
(c) Tư duy sâu lắng. Như là một người tư vấn, nhắc nhở chính mình về các nguyên nhân gây ra lo lắng đã được liệt kê trong những trang trước. Hãy tự hỏi chính mình về bất kỳ một nguyên nhân nào có thể gây ra sự lo lắng cho người được tư vấn. Đưa ra vài chủ đề nào đó và xem xét các dấu hiệu của sự lo lắng khi người được tư vấn trả lời các câu hỏi của bạn. Sau đó thảo luận về những cảm nhận của bạn.
Trong tất cả những điều này, cần lưu ý đến sự cần thiết phải nhẫn nại và tinh tế. Với tính chất rất tự nhiên, sự lo lắng thường xuất hiện khi đối diện trước các mối đe dọa mơ hồ và khó để nhận biết. Bằng cách thúc ép người được tư vấn “thôi đi” hoặc “mau lên, hãy nói cho tôi biết điều sai trái ấy đi”, chúng ta vô tình làm tăng thêm sự lo lắng, càng gây ra lúng túng hơn, và có nguy cơ làm mất dần hoặc khiến người lo lắng ấy lánh xa. Thật là quan trọng để một lần nữa, nhấn mạnh sự nhẫn nại về tình cảm.
5. Có những sự can thiệp. Sự lo lắng của mỗi người khác nhau: mỗi người có thể có một số triệu chứng nhất định và có những hình thức khác nhau để chữa trị. Chẳng hạn như một người nào đó luôn lo sợ khi nói trước công chúng, có thể không giống như người e ngại độ cao, hoặc như người bị tấn công bởi các nỗi sợ hãi dường như rất phi lý bất ngờ xảy ra.39
Mặc dầu có những sự khác biệt, nhưng David Sheehan, một chuyên gia về chứng lo lắng đã cho rằng – một sự thành công để chữa trị có thể được chấp nhận cho tất cả mọi người.40
a. Sự can thiệp của Thánh Kinh. Như chúng ta đã thấy, sự lo lắng thỉnh thoảng có một nguyên nhân về vật lý và các nhu cầu chữa trị về y khoa. Thông thường, một nhà vật lý sẽ làm việc chung với một người tư vấn không chuyên về y khoa.
Sự cộng tác này có nên bao gồm cả việc kê ra các loại thuốc để làm giảm sự lo lắng không? Một vài nhà tâm thần học và các nhà vật lý khác, nhanh chóng kê ra các loại thuốc mà rất có thể không cần dùng đến; một vài mục sư và những người tư vấn Cơ Đốc khác cũng nhanh chóng chỉ trích cách sử dụng các loại thuốc này khi họ có thể giúp người được tư vấn bình tĩnh trở lại, và làm cho việc tư vấn dễ dàng hơn. Cố gắng để cùng làm việc với một nhà vật lý, là người cẩn thận về cách sử dụng liều lượng thuốc an thần, và cũng là người sẵn sàng để kê ra các loại thuốc và hướng dẫn cách sử dụng những loại thuốc này khi sự lo lắng có vẻ như ở mức cao. Một vài người được tư vấn có thể cần sự giúp đỡ trong việc hồi phục sức đề kháng hoặc có thành kiến chống lại cách sử dụng các loại thuốc.
b. Sự can thiệp về các ứng xử. Cách đây một vài năm, phép chữa bệnh về cách ứng xử đã được giới thiệu như là một hình thức chữa trị xuất hiện một cách hiệu quả, đặc biệt cho những người hay lo lắng thái quá. Điều này đặt nền tảng trên giả thuyết cho rằng các sự đáp ứng trước sự lo lắng thường xuyên có được là do học tập, những người tư vấn cố gắng dạy người khác làm thế nào để thư giãn hiệu quả trong khi các tình trạng lo lắng tăng dần. Ví dụ, thỉnh thoảng những người được tư vấn có thể được dạy dỗ để thư giãn về thể chất, sau đó họ có thể trình bày những gì khiến họ sợ hãi một cách chậm chạp. Vào những lúc khác, những người được tư vấn có thể được khuyến khích để hành động (giả đò) giống như thể họ đang ở trong tình trạng lo lắng, và người tư vấn có thể dạy họ những cách đối phó hiệu quả. Những kỹ thuật như những cách này vẫn còn được sử dụng một cách rộng rãi và thành công. Chúng được áp dụng hiệu quả nhất khi sự lo lắng được phát hiện là đang gia tăng bởi một vật hay một tình huống cụ thể nào đó mà người được tư vấn có thể học tập để kiểm soát.41
c. Sự can thiệp của môi trường. Đôi khi cách tốt nhất và trực tiếp nhất để giải quyết sự lo lắng là thay đổi cách sống của một người, thay đổi các mối quan hệ, nơi ở, hoặc công việc. Chẳng hạn, hãy xem xét kẻ phạm pháp đang lo lắng về việc hắn có thể bị bắt. Sự lo lắng của người này có thể đánh giá với việc trở thành một người công dân đang phục tùng-luật pháp. Có lẽ ít rõ ràng, và ít có các sự thay đổi nào khác mà người được tư vấn có thể có để thay đổi các tình trạng hoặc trường hợp phát sinh-lo lắng? Những sự thay đổi như thế có thể cần được khích lệ và sự hướng dẫn đến từ một người tư vấn đầy nhiệt tình.
6. Hành động khích lệ. Mục đích tư vấn không phải để đánh giá tất cả các sự lo lắng. Thay vì thế, mục đích là để trợ giúp những người được tư vấn phát hiện ra các nguồn gây cho họ lo lắng. Kế đến, họ phải học tập làm thế nào để đối diện với chúng. Giúp đỡ những người được tư vấn thấy rõ hơn làm thế nào để đạt được sự đối đầu với chúng và cố gắng khắc phục sự lo lắng ấy – mặc dầu điều này có thể là mạo hiểm – hơn là tìm cách kháng cự lại trường hợp có sự thúc đẩy bên trong có thể giống như nó nhưng lại đau đớn. Khích lệ những người được tư vấn chấp nhận các sự lo lắng về tương lai của họ, nhưng sau đó dự tính điều phải được hoàn tất nếu như họ có thể giải quyết các tình huống làm gia tăng-lo lắng. Có phải có những kỹ năng hoặc những mẫu thông tin mà người được tư vấn cần có trước khi hành động chăng? Cố gắng tránh đề cập về lãnh vực trí tuệ, có thể là chính xác nhưng lại không có ích cho người khác – khi họ dự tính nói hoặảctực tiếp hành động cách cụ thể để giải quyết sự lo lắng. Một lúc nào đó bạn có thể sẽ muốn đề nghị một sự khích lệ thực tế nào đó liên quan đến một sự vui vẻ để thực thi khi chúng ta đang lo lắng và sợ hãi.
7. Đem lại sự ủng hộ. Trước đó điều này đã được đề cập – những người được tư vấn hay lo lắng nhận rất ít sự giúp đỡ từ những người tư vấn nóng tính và thiếu kiên nhẫn. Thay vì thế, người giúp đỡ phải từ tốn, nhiệt tình, và kiên nhẫn khi xem xét tiến trình dầu có thể là rất chậm chạp. Thỉnh thoảng dường như không thể có những người được tư vấn có khả năng hành động chống lại các sự lo lắng của họ. Những lúc như thế họ cần cảm thấy được ủng hộ, quan tâm chăm sóc từ mối quan hệ của một người tư vấn hiểu biết.
8. Khích lệ một sự đáp ứng Cơ Đốc. Kinh Thánh đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng và cụ thể, nhưng không nhất thiết phải liên tục để khắc phục căn bệnh lo lắng. Trong Phi 4:6, chúng ta được dạy rằng không nên lo lắng về bất kỳ điều gì. Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta không thể không lo lắng bởi sự chi phối của lý trí. Sự cố gắng cân nhắc như thế hướng sự chú ý của chúng ta đến các nan đề và có thể làm gia tăng thay vì giúp giảm đi sự lo lắng. Cần có một mục đích tốt hơn là để tập trung các hành động và suy nghĩ nhằm làm giảm sự lo lắng. Kinh Thánh cũng cho biết điều này có thể hoàn tất, và Kinh Thánh cũng đưa ra một công thức để chia sẻ thể nào với những người được tư vấn:
a. Vui mừng. Đây là một mệnh lệnh, được nhắc lại hai lần trong Phi 4:4. Khi thế gian tối tăm và đầy sự sợ hãi, Cơ Đốc Nhân vẫn có thể “vui mừng trong Chúa”. Hãy làm điều này bởi vì Chúa Jêsus đã hứa rằng Ngài chẳng bao giờ rời bỏ chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta sự bình an, Ngài sẽ ban Đức Thánh Linh (Đấng mà Đức Chúa Jêsus gọi là Đấng Yên-ủi/Người Tư vấn) ở với chúng ta và nhắc nhở chúng ta về những lẽ thật mà chúng ta cần ghi nhớ, và Ngài sẽ trở lại để đem những người tin Ngài đến một nơi đã được chuẩn bị trước cho chúng ta trên thiên đàng. Với sự nhận biết này, chúng ta có thể tin cậy Đức Chúa Trời và Ngài sẽ không để tâm trí của chúng ta bị bắt bớ hoặc bị sợ hãi đâu.42
b. Hãy dịu dàng. Tiếng Hy-lạp được dịch là “nết nhu-mì” trong Phi 4:5 – không có một từ tương đương thực sự nào trong tiếng Anh cả. Nó có nghĩa: hãy cho mọi người đều biết lòng nhơn từ, ngọt ngào, nết nhu-mì, thái độ ân cần, tử tế của anh em.43 Những tính chất này không đến cách tự nhiên. Chúng đến từ sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời; nhưng khi chúng ta sống, chúng ta điều khiển những định hướng chúng ta để phán xét người khác, hoặc đòi hỏi những quyền hạn của chúng ta. Một cái nhìn phán xét tiêu cực về cuộc sống sẽ gây ra sự lo lắng; một thái độ chịu đựng trong sự nhân từ sẽ làm giảm sự lo lắng.
c. Cầu nguyện. Phi 4:6 đưa ra các chỉ dẫn về lời cầu nguyện trong lúc lo lắng. Lời cầu nguyện như thế có thể bao gồm mọi thứ (ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất), nên bao gồm những lời cầu xin rõ ràng và cô đọng, và nên gắn liền với sự cảm tạ về lòng nhơn từ của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh hứa rằng “nếu như bạn làm theo điều này, bạn sẽ kinh nghiệm được sự bình an của Đức Chúa Trời, và sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết.” Rõ ràng rằng lời cầu nguyện này là một thứ thuốc giải độc quan trọng đối với sự lo lắng.
d. Suy nghĩ. Sự lo lắng thường đến khi chúng ta suy nghĩ liên tục về sự yếu đuối của con người chúng ta, những ảnh hưởng của điều ác trong thế gian, và những thứ có thể là sai trái. Vì thế trong Phi 4:8 dạy chúng ta hãy để tâm trí mình ở trong những ý tưởng tích cực, bao gồm: điều chi chơn-thật, điều chi đáng tôn, điều chi công-bình, điều chi thanh-sạch, điều chi đáng yêu-chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhơn-đức đáng khen – thì anh em phải nghĩ đến. Điều này không đề nghị chúng ta từ chối các nan đề hoặc làm ngơ trước các mối nguy hiểm. Ngược lại, Kinh Thánh cho chúng ta biết bằng chứng rõ ràng về năng lực của sự suy nghĩ tích cực được đặt nền tảng trên Thánh Kinh.
e. Hành động. Sứ-đồ Phao-lô đặt chính mình ông như là một tấm gương cho hành động. “Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình-an sẽ ở cùng anh em.”45 Nhiệm vụ của Cơ Đốc Nhân là hãy làm theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, và việc để ngồi lắng nghe thì không đơn giản chút nào.46 Để giảm lo lắng liên quan tới sự vâng lời và cách cư xử thiên-thượng, ngay cả khi đang lo lắng.
NGĂN CHẶN SỰ LO LẮNG
Phi-líp 4 đưa ra một công thức cho việc ngăn chặn sự lo lắng cũng như một sự thành công để tư vấn. Khi người ta có thể vui mừng, nhu mì, cầu nguyện, suy gẫm, và hành động theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, có một tiến trình dẫn đến việc ngăn chặn và kiểm soát sự lo lắng.
Một nghiên cứu của phòng nhân sự quân đội đối với trách nhiệm trong cuộc chiến Việt Nam, đã tiết lộ về những cách khác nhau mà người ta chống lại chính sự lo lắng mình.47 Đầu tiên, có sự gia tăng về suy nghĩ cho mình là tự tin – niềm tin vào những khả năng của một người khi gặp những thử thách và các mối nguy hiểm trong cuộc sống. Thứ hai, có sự liên quan đến công việc và các hoạt động khác làm sự lo lắng phát triển hơn nữa nhưng lại quên đi nguyên nhân gây ra lo lắng. Điều này có thể là hữu ích trong việc ngăn chặn sự lo lắng thái quá, trừ khi công việc trở nên cực kỳ thú vị và là giải pháp để thoát khỏi các mối nguy hiểm thực sự trong cuộc sống. Thứ ba, cần tin tưởng vào khả năng và sự từng trải của các nhà lãnh đạo, là những người có thể giải tỏa được sự lo lắng. Thứ tư, có đức tin nơi Đức Chúa Trời.
1. Tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Người học tập để hằng ngày bước đi trong mối thông công với Đức Chúa Trời sẽ đồng ý với tác giả bài thánh ca “Tôi không biết tương lai sẽ thế nào, nhưng tôi biết Đấng nắm giữ tương lai mình”. Lời khẳng định này có thể đem lại sự bảo đảm lớn ngay cả khi người khác có khuynh hướng lo lắng.
Tuy nhiên, đôi khi một sự tin cậy như thế lại dẫn đến thái độ cố chấp, mù lòa về thực tế, hoặc từ chối trách nhiệm, hay hướng đến một sự cứng nhắc trong suy nghĩ về những trở ngại quan trọng để một người chấp nhận thay đổi các tình huống. Ngược lại, Kinh Thánh khuyến khích sự đối đầu thực tế với các nan đề và có những quyết định uyển chuyển. Điều này làm cho người ta trưởng thành và chấp nhận sự thay đổi hoặc những mối nguy hiểm, ngay cả khi họ duy trì lối giải thích đầy tự tin về quyền uy tối cao và sự khôn ngoan cả thể của một Đức Chúa Trời toàn năng.
2. Học tập để đối diện. Đối diện với những nguyên nhân gây lo lắng, trước và trong khi chúng xuất hiện, có thể giúp chúng ta ngăn chặn sự lo lắng phát triển. Một sự đối diện như thế liên quan đến những điều sau đây, mà mỗi điều có thể trở nên một phần trong lối sống của một người:
• Chấp nhận các nỗi sợ hãi, những điều không chắc chắn, những mâu thuẫn, và các sự lo lắng, khi chúng xuất hiện.
• Nói cho một người khác biết về những điều này – trên một nền tảng bình thường nếu như thấy cần thiết.
• Xây dựng lòng tự trọng.
• Sự nhận biết rằng sự chia rẻ gây ra sự đau đớn, cố gắng duy trì sự thông công với những người bạn phân rẽ, và xây dựng các mối quan hệ mới với những người khác.
• Tìm kiếm sự giúp đỡ từ Đức Chúa Trời và những người khác khi gặp các nhu cầu.
• Học tập để giao tiếp một cách hiệu quả hơn.
• Học tập các quy tắc và những kỹ thuật để thư giãn.
• Đánh giá định kỳ các sự ưu tiên, các mục đích sống, và việc sử dụng thì giờ của một người.48
3. Giữ những điều này trong viễn cảnh.
Bất kỳ khi nào chúng ta tìm thấy chính mình trong một tình huống đang bị đe dọa, đang bị thách thức, hoặc đang bị nguy hiểm bao vây, hầu hết chúng ta đều cân nhắc các tình huống và cố gắng quyết định làm thế nào để chúng ta có thể đối diện cách tốt nhất. Tiến trình này, thỉnh thoảng được gọi là “sự đánh giá liên quan đến nhận thức”, nó giúp giải thích tại sao hai người có thể nhìn cùng một tình huống nhưng lại có những cách đáp ứng rất khác nhau. Làm thế nào để chúng ta đánh giá một tình huống phụ thuộc nhiều vào quan điểm hoặc viễn cảnh của một người.
Có một vài bằng chứng cho thấy các đặc điểm cá tính ảnh hưởng đến những quan niệm. Một vài người có cái nhìn rất tiêu cực khi nhìn mọi việc; một số khác thì lạc quan hơn và có xu hướng đánh giá sự việc trong khía cạnh sáng sủa hơn của cuộc sống. Để giúp ngăn chặn sự lo lắng, chúng ta có thể khích lệ người khác (đặc biệt là những người có hướng tiêu cực) giữ một viễn cảnh thực tế rằng họ không luôn luôn kết luận nhanh về điều tồi tệ nhất có vẻ như sắp xảy ra.49
4. Tiến tới Những Người Khác.
Người ta có thể quan tâm đến những người khác và từng bước giúp đỡ họ có hướng để đối diện cách tốt nhất trước những áp lực và sự lo lắng của cuộc sống.50 Người ta đang giúp đỡ và chịu đựng những gánh nặng của người khác51 có thể là một trong những cách tốt nhất để điều khiển và ngăn chặn sự lo lắng.
NHỮNG KẾT LUẬN VỀ SỰ LO LẮNG
Nhiều người tư vấn tin rằng sự lo lắng là một phần căn bản của tất cả các nan đề về tâm lý; nó đi đôi với hầu hết các chủ đề được thảo luận trong các chương sau.
Sự lo lắng cảnh báo con người về mối nguy hiểm và những động lực thúc đẩy chúng ta hành động. Khi điều này gây ra sợ hãi hoặc làm bất động nhiều người, sự lo lắng rất nguy hại. Khi điều này thách thức chúng ta giải quyết cách hiệu quả hơn trước những thách thức của cuộc sống, thì điều đó rất có thể có ích.
Chúa Jêsus đã đặt tất cả những điều này trong viễn cảnh khi Ngài nói về sự lo lắng trong Bài giảng trên Núi. Đức Chúa Trời biết rõ các nhu cầu và các sự lo lắng của chúng ta, Chúa Jêsus đã khẳng định như thế. Nếu như chúng ta trước hết dâng những sự ưu tiên của cuộc sống mình cho Ngài, chúng ta có thể yên nghỉ chắc chắn trong các nhu cầu của chúng ta, vì chúng sẽ được cung cấp đầy đủ52 và sẽ không còn lo lắng nữa. Đây là một thông điệp giúp cho việc tư vấn Cơ Đốc được thống nhất.
Christian Counseling – Gary R]. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Beck, A. T., and G. Emery. Anxiety Disorders and Phobias: A Cognitive Perspective. New York: Basic Books,1985.
Benson, Herbert. Beyond the Relaxation Response. New York: Times Books,1984.*
Gittelman, Rachel, ed. Anxiety Disorders in Childhood. New York: Guildord,1986.
Last, Cynthia G., and Michel Hersen. Handbook of Anxiety Disorders. New York: Pergamon,1987.
May, Rollo. The Meaning of Anxiety. Rev. ed. New York: Norton,1977.
Osborne, Cecil. Release from Fear and Anxiety. Waco, Tex.: Word,1976.
Sheehan, David V. The Anxiety Disease. New York: Charles Scribner’s Sons,1983.*
Wilson, R. Reid. Don’t Panic: Taking Control of Anxiety Attacks. New York: Harper & Row,1986.*