NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Dysfunctional Mental
DOUG LÀ MỘT SINH VIÊN ĐẠI HỌC đang theo học môn quản trị kinh doanh. Anh cũng là một bệnh nhân tâm thần. Khi gia đình của anh còn đang sống ở Atlanta, Doug không có các vấn đề bất bình thường này. Bạn bè gọi anh là một người sống đơn độc, nhưng anh vẫn kết thân được với nhiều người khác, vẫn duy trì được mức độ trung bình “B” ở trường, và vẫn có một công việc bán thời gian nơi mà anh rất thích. Cha anh là một người đàn ông kinh doanh thành công nhưng có chiều hướng trở thành một người nghiện rượu, nhưng điều này dường như không có ảnh hưởng gì đến Doug hoặc hai người em gái của anh. Mọi thành viên trong gia đình anh đều có chiều hướng khá độc lập trong mọi việc.
Khi cha của anh chuyển công việc kinh doanh sang đầu tư ở nước ngoài, Doug đã gặp một vài trở ngại trong việc điều chỉnh này, và anh đã dự định sẽ bỏ học sớm, vì thế anh chẳng bao giờ cố gắng để thích ứng với cộng đồng mới. Mọi người đều nghĩ rằng anh có thể sẽ vào đại học, sau đó nhận một mảnh bằng về kinh doanh, và theo bước chân của cha anh trong lãnh vực kinh doanh.
Trong suốt năm thứ nhất ở trường đại học, Doug càng ngày càng trở nên rút lui. Anh không còn quan tâm đến việc đi Nhà thờ, mặc dầu gia đình anh luôn luôn tham dự các buổi thờ phượng trong ngày Chúa Nhật tại nhà. Anh hiếm khi đi đến các câu lạc bộ của trường, trong Xã hội, mọi việc cứ thế trôi qua và anh đã bắt đầu bỏ các buổi đến lớp thường xuyên hơn. Khi Doug bắt đầu bỏ các bữa ăn, một số sinh viên khác đã thể hiện sự quan tâm về cách cư xử rút lui này của anh, nhưng Doug đã nói với họ rằng anh thường thích được ở một mình. Cuối cùng, các sinh viên khác từ bỏ việc cố gắng quan tâm hoặc liên quan đến anh nữa.
Một buổi sáng nọ, khi khu ký túc xá yên tĩnh và hầu hết các sinh viên đang ở trong lớp học, Doug đã cố gắng treo mình lên phía trên các dãy ghế trong phòng hội trường của trường, phần gần sân khấu nhất. Một người làm việc trong khu ký túc xá của trường đã phát hiện ra anh và đưa anh vào bệnh viện. Khi nghe về tin tức này, gia đình anh rất bối rối. Cha mẹ của Doug thắc mắc không biết họ đã làm điều gì sai chăng. Hai cô em gái của Doug cảm thấy xấu hổ và không muốn bạn bè mình biết tại sao Doug phải nhập viện, hoặc biết anh đang nằm trong khu tâm thần của bệnh viện. Không một ai trong gia đình anh có thể hiểu tại sao một sinh viên đại học trẻ tuổi, đẹp trai như anh lại có thể muốn chết bởi chính tay của mình, và các thành viên gia đình không có một ý tưởng gì và không biết trông mong điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Người cha của Doug rất lo lắng, đã hỏi người tư vấn của nhà trường: “Con trai tôi sẽ đỡ hơn chứ? Nó sẽ còn cố gắng giết chính nó nữa sao? Có còn niềm hy vọng nào đối với tương lai của nó chứ?” Gia đình của Doug đã nổ lực đối đầu với thế giới của căn bệnh tâm thần và họ đã không chắc sẽ tìm thấy nơi nào mà họ có thể nhận được sự hướng dẫn rõ ràng, sự khích lệ và giúp đỡ cụ thể.
Jack và Jo Ann Hinckley đã đối diện với một tình trạng rất khó xử và tồi tệ (tiến thoái lưỡng nan) vào ngày 30 tháng 3 năm 1981. Đứa con trai 25 tuổi của họ đang ở thủ phủ của một tiểu bang rất xa gia đình, ở tận Colorado, anh đang đứng giữa một đám đông bên ngoài khách sạn Hilton Washington. Trong tay anh đang cầm một khẩu súng đã lên đạn được giấu trong túi quần của anh, cách sợ sệt và lo lắng. Khi đối tượng chen qua giữa đám đông trước khách sạn và bước nhanh tới chiếc xe limousine (loại xe hòm, xe hơi to sang trọng đặc biệt có tấm kính ngăn cách người lái xe và hành khách) đang đợi sẵn bên ngoài, John Hinckley nhắm ngay mục tiêu, bóp cò súng, và cố ám sát vị tổng thống Hoa Kỳ. Các sự kiện chung quanh buổi sáng bi thảm ấy đã đi vào lịch sử. Ronald Reagan và một vài người khác đã ngã xuống (họ đã bị trúng đạn), nhưng sau đó đã được chữa trị hồi phục. Có thể lúc đó kẻ ám sát đã bị vật mạnh lên mặt đất, bị tống vào trại giam, và cuối cùng bị gởi vào bệnh viện tâm thần, là nơi mà anh vẫn còn ở đó cho tới lúc chết.
Trong một chốc, sau khi trải qua bao tranh chiến, cha mẹ của anh đã hiểu ra vấn đề. Họ chưa từng bao giờ biết về bất kỳ người nào mắc một căn bệnh vô phương cứu chữa, và họ cũng thắc mắc không hiểu tại sao trong khi hai đứa con gái của họ là những sinh viên ưu tú và là những lãnh đạo nổi bật, nhưng một đứa con khác thì đã cố gắng giết người. Hàng tháng trôi qua sau vụ ám sát, sự cố gắng của gia đình là một ác mộng về sự sầu não và thất vọng. Cuộc sống riêng tư của gia đình đã trở nên công khai trên các phương tiện truyền thông, nhiều người xem xét cẩn thận và tỉ mỉ, có thể nói là cả thế giới đều biết đến; sự kiện này được công chúng biết đến nhiều về Hinckley. Sự tổn thương càng lớn khi hành động này được kết luận bởi lời phán quyết của tòa, cho rằng anh không có lỗi bởi vì bị mất trí hay bị điên, đã có một sự phản đối công khai mạnh mẽ toàn quốc gia.
Jack và Jo Ann Hickley đã không hành xử như thảm kịch của gia đình họ. Thay vì thế, họ đã thành lập Ngân sách Sức khỏe cho các Bệnh Nhân Tâm thần ở Hoa Kỳ (the American Mental Health Fund), nhằm ủng hộ việc nghiên cứu và mang lại sự giáo dục phổ cập về căn bệnh tâm thần. Cha mẹ anh đã quyết định để những người khác biết về sự phổ biến và thực tế của căn bệnh tâm thần là một vấn đề rất nghiêm trọng. Không chỉ nghĩ cho mình, họ đã tìm cách vận động cho việc nghiên cứu nhằm có thể làm tăng sự hiểu biết về những nguyên nhân và cách điều trị cho những sự rối loạn não. Họ đã hết sức tận tâm trước việc ngăn chặn những sự rối loạn về não, nhờ đó các gia đình khác có thể chuẩn bị sẵn và đối phó với những sự rối loạn tương tự; và thảm kịch này đã làm thức tỉnh cuộc sống của họ, khi cảm xúc của đứa con trai bị căng thẳng và nó đã tìm cách giết tổng thống.1
Vậy, căn bệnh tâm thần là gì? Thuật ngữ này miêu tả về những triệu chứng rộng và lớn khác nhau, chúng mang đến sự thất vọng và/hoặc sự thiếu khả năng hay không có khả năng trong cuộc sống cá nhân, đối với Xã hội, hoặc trong nghề nghiệp của bệnh nhân. Sự thất vọng và sự không/thiếu khả năng có thể là nhẹ và chỉ ảnh hưởng chút ít, nhưng chúng cũng có thể trở nên rối loạn nhiều hơn và thỉnh thoảng mạnh mẽ hơn và nghiêm trọng. Trong những trường hợp rối loạn nhẹ, các triệu chứng rất khó được phát hiện. Bệnh nhân vẫn mang chức năng tốt trong tất cả mọi phần trong cơ thể, vẫn quan tâm và liên quan với nhiều hoạt động rộng rãi, kết thân tốt với những người khác; nói chung họ biểu hiện sự hài lòng với cuộc sống, và không có lo lắng nhiều hay có các vấn đề gì trong cuộc sống. Về một phương diện khác, sự suy nghĩ của những người này có thể được phóng đại thêm, sự giao tiếp của họ có thể có trục trặc, sự tiếp xúc của họ với thực tế là yếu kém, họ gặp khó khăn để kết thân với những người khác, họ thường không thể có chức năng gì trong Xã hội, và họ có thể đang ở trong mối nguy hiểm có nguy cơ gây hại đến những người khác và tự-làm hại bản thân.
Những nhà tư vấn chuyên nghiệp gọi những biểu hiện về căn bệnh tâm thần như trên, là gì? Đó là tình trạng mất trí hay bị điên, hoặc những sự lo lắng cao độ? Dường như họ gọi chung là bệnh tâm thần, cảm xúc bị rối loạn, hoặc đó là những sự rối loạn về não. Một thuật ngữ mới được Hiệp Hội Tâm thần Hoa Kỳ (the American Psychiatric Association) sử dụng trong cuốn sách giáo khoa phân loại về căn bệnh này (được biết phổ biến là DSM-III-R),2 và đây là thuật ngữ sẽ được dùng nhiều nhất ở trong chương này.
Những sự rối loạn về não không phải tất cả đều giống nhau. Có vài trăm sự rối loạn đã được nhận dạng và phân thành các loạI tùy theo những triệu chứng và tính nghiêm trọng của sự yếu kém. Chẳng hạn, cứ trong một trăm người dân Mỹ thì gần như có một người bị rối loạn bởi căn bệnh tâm thần phân liệt tấn công vào một lúc nào đó trong suốt cuộc sống của họ. Bệnh có thể là nhẹ, tiềm ẩn, hoặc có thể là nghiêm trọng, mạnh mẽ. Bệnh có những nguyên nhân khác nhau và bệnh có thể được chia thành một số loại, mỗi loại có các triệu chứng riêng của nó được liệt kê ra, chỉ một số loại có thể có mặt trong bất kỳ người nào đó. Bệnh có thể đi xa hơn phạm vi của cuốn sách này mà chúng ta có thể miêu tả, thậm chí cả với những sự rối loạn tâm thần chủ yếu; nhưng Bảng 31-1 mang lại một cái nhìn tổng quát đặt nền tảng trên sự phân loại DSM-III-R của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (the American Psychiatric Association’s DSM-III-R). Mặc dầu chúng có thể không giống với tất cả mọi sự rối loạn, nhưng những người tư vấn có thể nhờ đó nhận ra các triệu chứng chủ yếu của bệnh tâm thần, có thể hiểu một số nguyên nhân phổ biến gây ra sự rối loạn não, và nên biết giúp đỡ như thế nào đối với các bệnh nhân tâm thần và cho các gia đình của họ.3
Bảng 31-1
Những Rối loạn Tâm thần Chủ yếu
1. Những sự rối loạn thường rõ ràng trước tiên ở thời kỳ vị thành niên, thời thơ ấu, hoặc thời thanh niên:
• Những sự rối loạn về cách cư xử rối loạn
• Những sự rối loạn lo lắng về thời thơ ấu hoặc thời thanh niên
• Những sự rối loạn trong việc ăn uống
• Những sự rối loạn trong việc nhận dạng về giống
• Những sự rối loạn về tật giật mình (thỉnh thoảng các cơ lại giật một cách tự phát, nhất là ở mặt)
• Những sự rối loạn loại trừ
• Những sự rối loạn trong ngôn ngữ nói – không phải được phân loại ở nơi nào khác
• Những sự rối loạn khác ở thời kỳ vị thành niên, thời thơ ấu hoặc thời thanh niên
9. Những hội chứng và những sự rối loạn tâm thần hữu cơ (có hệ thống)
• Sự gia tăng chứng mất trí trong các chất Senium và Presenium (tại đây bao gồm bệnh Alzheimer/bệnh mất trí nhớ và chứng mất trí lão suy)
• Những sự rối loạn tâm thần hữu cơ gây ra-chất tâm thần-tích cực/Psychoactive (bao gồm sự thoái suy não kết hợp với chứng nghiện rượu và các hình thức khác của trạng thái say xỉn với các chất, như các loại tân dược tổng hợp, đặc biệt là các chất kích thích/amphetamine; thuốc dùng để gây mê và những loại tân dược được người nghiện dùng thay thế chất ma túy/cocaine; các chất ma túy gây ra ảo giác/hallucinogen; và các chất độc hại khác)
• Những sự rối loạn tâm thần hữu cơ kết hợp với những sự rối loạn vật lý hoặc những điều kiện vật lý, hay với nguyên nhân sinh học (nguyên nhân bệnh/etiology, aetiology) chưa biết đến.
10. Những sự rối loạn trong việc lạm dụng chất Psychoactive (chất tâm thần-tích cực)
Bao gồm sự phụ thuộc và sự lạm dụng alcohol, caphêin là chất kích thích có ở trong lá chè và hột cà phê (caffeine), cocaine (thuốc dùng để gây mê và những người nghiện dùng làm chất ma túy), hallucinogen (các chất ma túy gây ra ảo giác), các chất để ngửi (chứa trong dụng cụ làm bốc hơi thuốc vào một bình xịt nhỏ để hít) – inhalant, ni-cô-tin (chất độc hại có trong thuốc lá – nicotine), thuốc an thần (sedative) và các chất khác.
11. Bệnh tâm thần phân liệt (Schizophrenia)
Đây gồm các triệu chứng liên quan đến sự căng cứng cơ bắp và trạng thái sững sờ hoặc gần như bất động do bị choáng váng vì ma túy, rượu (hầu như thấy nhiều ở các bệnh nhân tâm thần phân liệt) – catatonic/catatonia; sự rối loạn tổ chức hay còn gọi là rối loạn hữu cơ; bệnh hoang tưởng (paranoid); các loại không phân biệt và các loại còn lại.
12. Sự rối loạn ảo tưởng, ảo giác hay chứng hoang tưởng tự đại (delusional) hoặc gọi là bệnh hoang tưởng (paranoid)
Đây gồm các loại triệu chứng với erotomanic, cường điệu (được vạch ra theo một quy mô lớn), đố kỵ, khủng bố, somatic (tế bào trong cơ thể đối lập với sự tái sản sinh hoặc tế bào phôi hay còn gọi là mầm bệnh) và các loại không cụ thể khác.
13. Những sự rối loạn thần kinh không được phân loại ở nơi nào khác
14. Những sự rối loạn tâm trạng
• Những sự rối loạn tại hai cực (gồm những sự rối loạn suy giảm-vui buồn thất thường hỗn hợp và những sự rối loạn vui buồn thất thường)
• Những sự rối loạn suy giảm
15. Những sự rối loạn-lo lắng
Đây gồm những sự rối loạn sợ hãi, ám ảnh, những sự rối loạn ám ảnh-hấp dẫn gây ra, và sự rối loạn căng thẳng xảy ra sau khi bị chấn thương.
16. Những sự rối loạn mang hình thức từ mầm bệnh (somatoform disorders)
Đây là những sự rối loạn liên quan đến cơ thể, bao gồm những sự rối loạn về chứng nghi bệnh và những sự rối loạn chuyển đổi.
17. Những sự rối loạn bị phân tách
Những sự rối loạn này bao gồm sự rối loạn cá tính bội số, chứng quên về di truyền tâm thần, và sự rối loạn làm giảm cá tính.
18. Những sự rối loạn tình dục
• Chứng hay bảo vệ (ưa người khác), bao gồm thói thích phô trương, sự kích dục, predophilia, sự thống dâm – có được sự thích thú, khoái lạc, (nhất là trong tình dục) từ sự đau khổ hoặc nhục nhã của bản thân, tính ác dâm (có khoái cảm tình dục từ các trò tàn ác), sự mặc quần áo của người khác phái như một khuynh hướng tình dục, và thói nhòm lỗ khóa.
• Những sự rối loạn chức năng tình dục (gồm sự khao khát tình dục dướI mức tích cực, sự không thích rõ ràng đối với tình dục, những sự rối loạn làm thức tỉnh tình dục, những sự rối loạn về sự cực khoái và những sự rối loạn đau đớn tình dục)
19. Những sự rối loạn trong giấc ngủ
Đây là những sự rối loạn bao gồm chứng mất ngủ, những sự rối loạn trong lịch trình ngủ và thức, những cơn ác mộng, sự rối loạn triền miên trong giấc ngủ, mộng du (hay miên hành) và chứng bảo vệ khi ngủ.
20. Những sự rối loạn giả tạo (không tự nhiên)
Đây là những sự rối loạn mà các triệu chứng vật lý và tâm lý là giả vờ
21. Những sự rối loạn xung lực (đột ngột) không được phân loại ở nơi nào khác
Đây là những rối loạn gồm bệnh ăn cắp vặt (thói táy máy), thói cờ bạc bệnh hoạn (làm liều vì mối lợi có thể có), chứng cuồng phóng hỏa và những sự rối loạn kiểm soát xung lực.
22. Những sự rối loạn có thể điều chỉnh
Bao gồm những sự khó khăn điều chỉnh kết hợp với:
• Tâm trạng lo lắng
• Tâm trạng thất vọng
• Sự bối rối từ phẩm hạnh
• Những sự phàn nàn vật lý
• Sự rút lui
• Sự ức chế trong công việc hoặc trên lý thuyết
23. Những nhân tố tâm lý ảnh hưởng đến điều kiện vật lý
24. Những sự rối loạn cá tính
Đây là những sự rối loạn gồm: bệnh hoang tưởng, chứng loạn thần kinh, tính khó gần, cá tính thuộc giữa hai nhóm hoặc hai loại khác nhau, và tính tự yêu mình.
25. Những điều kiện không có thể quy cho sự rối loạn tâm thần, nhưng tập trung sự chú ý hoặc sự điều trị vào:
• Vấn đề lý thuyết
• Cách cư xử khó gần (phản xã hội)
• Sự giả vờ ốm (để tránh việc hoặc nhiệm vụ)
• Vấn đề trong hôn nhân
• Không hành động phù hợp với sự điều trị y khoa
• Vấn đề nghề nghiệp
• Vấn đề giữa cha/mẹ-con cái
• Vấn đề bên trong với cá nhân khác
• Các tình huống khác trong từng gia đình cụ thể
• Thời kỳ của vấn đề cuộc sống hoặc tình huống cuộc sống khác
• Tình trạng mất người thân không phức tạp
KINH THÁNH VÀ NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Kinh Thánh nói rất ít về những sự rối loạn tâm thần, nhưng tâm lý-tâm thần học đã được phát hiện ra và có lẽ là phổ biến, đặc biệt là khi không có các loại thuốc cho tâm lý liệu pháp hoặc các phương pháp chữa trị hiện đại. Có lần vua Đa-vít đã giả vờ mất trí. Cách cư xử của ông chỉ là giả đò, nhưng điều này đã mang lại một cái nhìn rõ ràng về một số triệu chứng nào đó về tâm lý-tâm thần học đã được thấy ở thời Cựu Ước. Đa-vít “giả-đò điên-cuồng trước mặt chúng, và làm bộ dại-khờ giữa họ; người vẽ gạch dấu trên cửa và để nước miếng chảy trên râu mình.”4
Nhiều năm sau đó, vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đã có một giấc chiêm bao đã được Đa-ni-ên giải nghĩa:
Đây là điều được phán truyền cho ngươi, vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Lời chưa ra khỏi miệng vua, thì có tiếng từ trên trời xuống rằng: Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đã lìa khỏi ngươi. Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc phải ăn cỏ như bò, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận-biết rằng Đấng Rất Cao cai-trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý.”
“Trong chính giờ đó, lời nói ấy đã ứng-nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua bị đuổi khỏi giữa loài người; ăn cỏ như bò; thân-thể vua phải thấm-nhuần sương-móc trên trời, cho đến tóc vua cũng mọc như lông chim ưng, móng vua thì giống như móng loài chim-chóc.”5
Trong Tân Ước, Phê-tu đã ngăn cản sự rao truyền Phúc Âm của Phao-lô và nói lớn lên rằng: “Hỡi Phao-lô, ngươi lảng-trí rồi; ngươi học biết nhiều quá đến nỗi ra điên-cuồng.”6 Ở một chỗ khác trong Kinh Thánh, chúng ta đọc biết Chúa Jêsus đã chữa lành những người “bị quỷ ám, hoặc mắc bệnh phong điên, hoặc bị tàn tật.”7
Từ “insane” được dịch là “mất trí”; từ này được viết ra trong một câu Kinh Thánh, nhưng nó có nhiều nghĩa khác nhau trong tiếng Anh và chúng được dùng tạI nhiều chỗ trong Kinh Thánh tiếng Anh (“điên cuồng, lảng trí, ngu dại, …). Chẳng hạn như, trong bản King James (The King James Version), từ này được dùng như là thuật ngữ “lunatic” (điên rồ) hơn là “insane” (mất trí); nhưng trong một số bản dịch hiện đạI thì ám chỉ về những cơn tai biến cao huyết áp. Trong bản Kinh Thánh hiện đại NIV (The New International Version) nói rằng: Chúa Jêsus đã chữa lành “những người phải chịu đau-đớn quá, những người bị quỷ ám, những người mắc bệnh phong-điên, và những người tàn tật hay què quặt”; nhưng bản Kinh Thánh Chuẩn Mới của Mỹ (the New American Standard Bible) thì sử dụng từ “epileptics” (bệnh động kinh) thay thế cho từ “mắc bệnh phong điên” (having seizures).
Tâm thần học hiện đại có thể xem bệnh động kinh như là một sự rối loạn tâm lý não thỉnh thoảng khiến bệnh nhân mắc bệnh phong điên, nhưng không nên coi điều này ngang với sự mất trí (tình trạng bị điên). (Trong cách dùng hiện đại, sự mất trí là một thuật ngữ hợp lý được dùng để miêu tả những người như John Hinckley, Jr., là người được xem là không có lỗi hay không phạm những hành động tội lỗi như giết người, bởi vì họ là những người mất trí). Hầu như những tư vấn Cơ Đốc tin về sự ma ám hay bị quỷ ám,8 họ có thể đồng ý đó là căn bệnh vật lý, bệnh động kinh, những sự rối loạn não; và sự bị quỷ ám là những thuật ngữ ám chỉ đến những điều kiện khác nhau, mặc dù nhiều triệu chứng là tương tự như nhau.
Kinh Thánh không tự nhận là một cuốn sách giáo khoa chẩn đoán, nhưng Kinh Thánh mang lại một số ví dụ về sự tự sát (gồm những cái chết của vua Sau-lơ, khi ông dùng gươm rồi sấn mình trên mũi nó và chết; và Giu-đa là kẻ phản Chúa, sau đó tự treo cổ tự tử)9 và Kinh Thánh có sự ám chỉ đến nhiều cảm xúc hình thành nên nền tảng của những sự rối loạn tâm thần: lo lắng, giận dữ, bất hòa, ghen tỵ, thù ghét, nhục dục, chia rẻ, hoài bão ích kỷ, thiếu kiên nhẫn, thiếu sự tiết độ, thờ hình tượng, những cuộc chè chén trác táng (điên cuồng), sự không chung thủy trong tình dục, thói phàm ăn, say sưa, xung đột (cãi lẫy), nói dối, bạo lực, và một số những sự rối loạn khác.
Từ điều này cho thấy, Kinh Thánh không bàn đến những sự rối loạn tâm thần luôn có liên quan hoặc đến từ tội lỗi trong cuộc sống của người khổ sở. Một số người như Đa-vít, vị vua đã giả đò có một số triệu chứng không bình thường cho các mục đích riêng của ông. Nhiều người khác, như vua Nê-bu-cát-nết-sa, tâm lý-tâm thần của vua xảy ra bởi vì ông đã từ chối vâng lời Đức Chúa Trời một cách có chủ tâm. Những người khác như Gióp. Ông là người vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác. Các vấn đề cảm xúc và vật lý của ông xảy ra vì các nguyên nhân khác hơn là vì tội lỗi cá nhân. Cuối cùng, tất cả những sự rối loạn vật lý và tâm thần xảy ra là bởi vì tội lỗi đã vào trong thế gian cách đây nhiều thế kỷ. Kinh Thánh dạy: tất cả chúng ta đều là những tội nhân; và vì điều này, Kinh Thánh không theo những kết quả tâm lý-tâm thần cần thiết từ những hành động tội lỗi cá nhân của chính nạn nhân.
CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG SỰ
RỐI LOẠN TÂM THẦN
Theo một nghiên cứu tiêu tốn hàng triệu đô la, bởi Viện Quốc gia về Sức Khỏe Tâm thần (the National Institute of Mental Health) cho thấy, vào bất kỳ thời điểm nào cứ trong số năm người lớn thì có gần một người chịu đựng sự rối loạn tâm thần. Mức độ nghiêm trọng của những sự rối loạn này được xếp từ sự tàn tật-lo lắng nhẹ cho đến bệnh tâm thần phân liệt nghiêm trọng. Các tỷ lệ ở mỗi nơi mỗi khác, và có một con số khác biệt về tuổi tác. (Khi đem so sánh với những người lớn tuổi hơn, những người dưới 45 khoảng gấp 2 lần tỷ lệ có những sự rối loạn tâm thần). Nói chung, căn bệnh tâm thần được chia ra cách cân bằng giữa người nam và người nữ, mặc dù có những khác biệt về loại vấn đề. Phụ nữ thường chịu đựng nhiều thất vọng và mang nhiều nỗi ám ảnh, sợ hãi hơn; đàn ông có các vấn đề về lạm dụng ma túy và rượu chè hoặc có những cá tính khó gần hơn.10
Các nguyên nhân của những sự rối loạn này mỗi người khác nhau và liên quan với loại rối loạn não. Nếu như được đến thăm một bệnh viện tâm thần, chúng ta có thể phát hiện ra hai loại bệnh nhân vớI cùng một sự chẩn đoán tương tự, nhưng tiểu sử cuộc sống của họ khác nhau trước khi họ phải nằm viện. Chỉ như là sự lên cơn tim (bệnh tim) và bệnh viêm ruột thừa có các nguyên nhân khác nhau, vì thế những sự rối loạn tâm thần khác nhau.
Mặc dầu mỗi trường hợp là đồng nhất, những sự rối loạn tâm thần xuất hiện từ một sự kết hợp những căng thẳng hiện tại và những ảnh hưởng dễ gây bệnh trong quá khứ.
1. Căng thẳng hiện tại. Có phải cuộc sống ngày nay căng thẳng hơn cách đây một thế kỷ chăng? Điều này có thể được thảo luận – những sức ép lớn hơn vào thời gian này trong lịch sử bởi vì bước chân phát triển hiện tại và sự phức tạp của cuộc sống, những thay đổi kỹ thuật đòi hỏi cần có sự điều chỉnh liên tục, và những khả năng trong giao tiếp mang lại cho chúng ta thông tin tức thời về những căng thẳng bên trong mỗi cá nhân hoặc các vấn đề trong môi trường hàng xóm.
Những căng thẳng hướng tới căn bệnh tâm thần có thể được chia ít nhất thành 3 loại: sinh (vật) học, tâm lý, và Xã hội. Những căng thẳng sinh học bao gồm bệnh của cơ thể, ảnh hưởng của ma túy, những độc tố hoặc những chất gây ô nhiễm ở trong không khí, sự tổn thương não, hoặc tình trạng nghèo khổ về vật chất như sự thiếu các chất dinh dưỡng hoặc thiếu ngủ. Việc cảm thấy quá mệt mõi và bạn dường như thiếu kiên nhẫn và thất vọng. Việc lừ đừ, kiệt sức và những dấu hiệu bất bình thường ngày một nhiều hơn, ít nhất cho tới khi bạn có thời gian nghỉ ngơi.
Những căng thẳng tâm lý gồm những sự thất vọng cá nhân, những mâu thuẫn bên trong, các nỗi sợ hãi, và những cảm giác không đảm bảo. Qua một số bài báo phát hành thường xuyên miêu tả về các vụ tự sát của những sinh viên quẫn trí vì mình thiếu/không có khả năng để thi đậu trong các kỳ thi quan trọng. Trong một Xã hội mà các giá trị thành công và khả năng có thể đạt được điều gì đó, rất khó cho một số người để đối diện với sự thất bại, đặc biệt là nếu như họ có những tiêu chuẩn quá cao đối với chính họ, hoặc cảm thấy bị áp đặt từ các thầy cô giáo, các công nhân, và các thành viên trong gia đình.
Sức ép từ gia đình có thể là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về mặt Xã hội, đẩy một số người hướng tới những sự rối loạn tâm thần. Khi không có sự đảm bảo về kinh tế, thất nghiệp lan tràn, hoặc nền chính trị thiếu ổn định; một số người sẽ không thể giải quyết căng thẳng và có những sự không chắc chắn. Ngay cả môi trường vật lý cũng có một ảnh hưởng. Các giai đoạn thời tiết nóng kéo dài, tối tăm, chật chội, ồn ào, hoặc những tình huống căng thẳng khác cũng có thể gây ra khó khăn hơn trong việc đối diện với chúng và làm tăng nguy cơ khiến những sự rối loạn tâm thần xảy ra.11
2. Những ảnh hưởng dễ gây bệnh. Mặc dầu những căng thẳng có thể là tương tự, nhưng nhiều người thể hiện chúng ra trong những cách khác nhau. Trên các trang báo thỉnh thoảng người ta miêu tả về tình trạng tiếp theo và là hậu quả của một cơn lốc xoáy hoặc trong các điều kiện thời tiết mang tính hủy phá khác. Cùng một sự mất mác nhưng vừa có thể để lại cho một người cảm giác thất vọng và bị ngăn cản, lại có thể kích thích một người khác có những hành động thương xót và sự quyết định thắng vượt nỗi đau mất mác đó.
Những khác biệt như trên thường phản chiếu nền tảng và những kinh nghiệm trong quá khứ của người đó. Giống như sự căng thẳng hiện tại, những ảnh hưởng dễ gây bệnh này có thể bao gồm một số loại. Những căn bệnh sinh học dễ mắc gồm những ảnh hưởng của di truyền, sức khỏe vật lý ở quá khứ, các nhược điểm bẩm sinh, sự rối loạn chức năng về tuyến, và những ảnh hưởng vật lý khác. Chẳng hạn, sự thất vọng nghiêm trọng có thể gây ra bởi sự căng thẳng, nhưng điều kiện dường như là tồi tệ hơn ở một số người, bởi vì những ảnh hưởng di truyền và những sự không cân bằng hóa học-thần kinh.12
Những bệnh dễ mắc về tâm lý gồm những ảnh hưởng từ sự bất hòa trong gia đình lúc trước, những sự mất mác ở thời thơ ấu, những tổn thương trong quá khứ, việc cha/mẹ làm ngơ hoặc sự lạm dụng của cha/mẹ, cảm giác có lỗi trong học tập, việc bị khước từ trước kia, hoặc sự dạy dỗ đòi hỏi quá nhiều và quá cứng nhắc đến nỗi người này luôn luôn cảm thấy như mình là một sự thất bại. Một nghiên cứu về những sự rối loạn căng thẳng sau khi bị chấn thương (PTSD) đã so sánh những cựu chiến binh Việt Nam, là những người không thể hiện triệu chứng nào về sự rối loạn, với những người đã bị rối loạn. Trái với các đồng nghiệp không bị ảnh hưởng của họ, những cựu chiến binh (PSTD) này được ghi nhận là trong thời gian chiến đấu họ có nhiều bạn bè bị tử trận hơn, họ có liên quan nhiều đến việc giết hại những người khác, có các mối quan hệ gần gũi hơn với những người đã chết, có những thương tích trong chiến trận nhiều hơn, và những kinh nghiệm tiêu cực nhiều hơn tại nhà sau khi họ giải ngũ. Nhiều cựu chiến binh trong số này đã có những thái độ bảo toàn thiên vị hướng về chiến tranh, nhưng những kinh nghiệm chấn thương của họ tại Việt Nam đi kèm với việc thiếu sự ủng hộ khi họ trở về nhà, kết hợp với việc tạo ra lo lắng, thất vọng, và những chứng cớ khác về sự bất bình thường lâu dài sau khi chiến tranh kết thúc.13
Những sự rối loạn tâm thần cũng có thể phụ thuộc vào những bệnh dễ mắc mang tính Xã hội. Những sự rối loạn này gồm tầng lớp Xã hội của người đó, nơi ăn chốn ở, tình trạng hôn nhân, mức độ kinh tế-xã hội, sự sáp nhập tôn giáo, hoặc thành viên trong một nhóm người thiểu số. Chẳng hạn, khi đem so sánh với sự giàu có, những người nghèo khổ có chiều hướng có các tỉ lệ cao hơn về tâm lý-tâm thần học. Người nghèo có ít sự điều khiển trên những tình huống của họ, và bởi vì họ thiếu các nguồn mà họ phải đợi chờ sự chữa trị cho tới khi các vấn đề của họ càng nghiêm trọng hơn. Những người có tiền nhiều hơn hoặc có thể trả được những khoản tiền bảo hiểm, họ có được sự tư vấn sớm hơn và dường như ít nằm viện hơn người nghèo hoặc ít được liệt kê trong khoa học thống kê về số người có những sự rối loạn tâm thần.
3. Tội lỗi và trách nhiệm. Một số học giả Cơ Đốc và các tư vấn Cơ Đốc khẳng định rằng những sự rối loạn tâm thần hầu như là kết quả từ tội lỗi cá nhân, và sự tư vấn liên quan tới những người đang được thúc giục để xưng ra tội lỗi của họ và thay đổi cách cư xử của họ. Quan điểm đơn giản và cả tin này thất bại khi có ấn tượng về sự phức tạp của những sự rối loạn tâm thần và ảnh hưởng sâu sắc, thấm nhuần của tội lỗi.
Tội lỗi có thể được xem từ hai triển vọng: những tội lỗi có chủ tâm và nhận thức được mà nhiều người phạm phảI; và sự phạm tội bẩm sinh (nguyên tội) là một phần bản chất của con người. Trong một cách tương tự, trách nhiệm có thể được xem từ hai triển vọng: tôi chịu trách nhiệm hoặc người nào đó chịu trách nhiệm. Vì thế, khi một người bệnh vô phương cứu chữa, vấn đề có thể đến từ những hành động tội lỗi của người đó và/hoặc bản chất tội lỗi của người đó; trách nhiệm cuối cùng đối với vấn đề có thể đến từ người được tư vấn và/hoặc từ một người khác. Điều này có thể được thể hiện trong một biểu đồ đơn giản (được chấp nhận từ công việc của nhà tâm lý Cơ Đốc Bruce Narramore).14
Các nguyên nhân của những sự rối loạn tâm thần xuất hiện từ tất cả bốn góc của thước đo độ và sự chữa trị sẽ phải cân nhắc tất cả cùng 4 điểm:
(a) Góc I. Ở đây người có các vấn đề bởi vì điều gì đó tội lỗi (hoặc điều ngớ ngẩn) mà người đó đã làm. Trách nhiệm đối với vấn đề và sự chữa trị giúp cho người đó nghỉ ngơi nhiều. Sự xưng tội, cách cư xử thay đổi, và việc học tập lại là những sự chữa trị trong số các sự chữa trị thích hợp nhất.
(b) Góc II. Đây liên quan tới cách cư xử tội lỗi hoặc cách cư xử tổn hại khác xuất phát từ một người nào khác, không phải là người được tư vấn. Chẳng hạn như, một người với những cảm giác lớn về sự thấp kém hơn và sự tự-đánh giá bản thân thấp có thể đã phát triển những thái độ này, bởi vì những lời chỉ trích tội lỗi xem thường liên tục đến từ giáo viên, cha/mẹ, hoặc người phối ngẫu hay sự chỉ trích quá khe khắt (nhất là về những lỗi lầm lặt vặt). Con cái lớn là những đứa nghiện rượu thường chịu đựng bởi việc uống rượu từ người cha/mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ. Sự điều trị có thể liên quan tới việc giúp đỡ những người này tha thứ, thay đổi các quan niệm, và giải quyết những tổn thương chịu đựng lâu dài, sự cay đắng, và những kỷ niệm đau lòng.
(c) Góc III. Điều này giới thiệu về một bức tranh phức tạp hơn. Một số người phát triển những sự rối loạn tâm thần không bởi các tội lỗi cụ thể, nhưng do họ bị thúc đẩy bởi những nỗi sợ hãi sâu sắc, những sự không đảm bảo, những sự không/chưa trưởng thành, sự ngu dốt, những chấn thương trong quá khứ, những ảnh hưởng vật lý được thừa hưởng, những thái độ làm tổn hại, hoặc các lãnh vực khác về cá tính xảy ra, bởi chúng ta đang sống trong một thế giới băng hoại và tất cả đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tội lỗi. Những người Pha-ri-si trong thời Chúa Jêsus là những người có cách cư xử công bình mẫu mực, nhưng trong lòng họ đầy sự tham lam, luông tuồng, đạo đức giả, tội ác, và có thể nhiều sự xấu hổ và tự dốI mình.15 Giúp đỡ những người này chỉ có thể là dẫn họ đến với sự khai sáng và sự hiểu biết gia tăng, sự xưng tội, và sự vui lòng để Đức Chúa Trời làm việc nhằm tẩy sạch, thay đổi, và mang lại sự trưởng thành cho cuộc sống tâm linh. Đây là một tiến trình có thể phải mất nhiều thời gian và chữa trị sâu hơn.
(d) Góc IV. Nhiều vấn đề cá nhân xảy ra bởi vì chúng ta sống trong một thế giới mà tội lỗi đã thấm vào nền văn hóa: nơi có sự mâu thuẫn, căng thẳng, nghèo đói, phân biệt giai cấp, chiến tranh, bệnh tật, và sự bất công trải khắp. Trước khi Đấng Christ quay trở lại để mang sự công bằng hoàn hảo và tiêu trừ tội lỗi, thì những điều kiện bệnh hoạn này sẽ cứ tồn tại gây ra sự tàn phá Xã hội và những sự rối loạn tâm thần cá nhân. Mặc dầu chiến trường sẽ chẳng bao giờ được chiến thắng hoàn toàn cho đến khi Đấng Christ trở lại, các Cơ Đốc Nhân có trách nhiệm chống cự lại sự bất công trong Xã hội, làm việc vì hòa bình, và phấn đấu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Những người tư vấn có trách nhiệm tìm cách thay đổi những hoàn cảnh ấy nhằm đem lại bệnh (lý) học, dạy dỗ người khác đối diện với căng thẳng ra sao, và giúp những người được tư vấn chiến thắng những ảnh hưởng tồn đọng của những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ.
Những sự rối loạn tâm thần hiếm khi xuất hiện từ chỉ bởi một trong 4 góc này. Đa số hầu như là những sự ảnh hưởng đến từ một số góc. Điều này mang lại một thách thức lớn hơn trong những nổ lực của chúng ta nhằm tìm kiếm các nguyên nhân và mang lại sự điều trị hiệu quả.
4. Tự sát. Thỉnh thoảng vì sức ép của cuộc sống và gặp quá nhiều căng thẳng nên nhiều người quyết định sống cuộc sống riêng cho mình. Hầu hết đều có suy nghĩ về ý tưởng này trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng trước đó.16 Những hành động tự sát của họ hiếm khi là đột ngột, hấp tấp, hoặc tình cờ (mặc dù có những trường hợp bi thảm như là những động cơ tự sát của thiếu niên, nơi mà sự chú ý xảy ra theo sau sự tự sát, hướng những thiếu niên khác cố gắng bắt chước làm điều nào đó tương tự). Có thể hầu hết những người cố gắng hoặc phạm tội tự sát thành công không phải đều mắc căn bệnh vô phương cứu chữa.17 Vậy thì tại sao có một số người quay trở lại những hành động tự-hủy hoại chính mình? Có thể có các nguyên nhân khác nhau:18
• Giải thoát khỏi: sự cô độc, vô vọng, các vấn đề của việc làm cha làm mẹ, thất vọng, những khó khăn trong suy nghĩ hoặc trong công việc, những sức ép về tài chánh, hoặc những sự mâu thuẫn với những người khác.19
• Trừng phạt những người còn sống để họ luôn cảm thấy đau đớn và dằn vặt.
• Lấy lại sự chú ý.
• Vận động những người khác (thường điều này có thể được hoàn thành tốt nhất bởi sự đe dọa sẽ tự sát).
• Chung dự với một người rất đỗi yêu thương đã qua đời.
• Tránh sự trừng phạt.
• Sửa phạt chính mình vì điều gì đó đã gây ra lầm lỗi.
• Ngăn chặn chính mình khỏi việc trở thành một gánh nặng cho những người khác.
• Tránh sự chịu đựng và những ảnh hưởng khác của một căn bệnh kinh khiếp nào đó.
• Tìm kiếm sự đau khổ hoặc cái chết của người tử vì đạo, vì nghĩa…
Một số nguyên nhân trong danh sách trên có vẻ không hợp lý hay lôgic. Chẳng hạn, không có gì chắc chắn về việc tự sát sẽ có thể khiến nạn nhân thu phục một người bị giảm tình yêu thương từ những người khác. Lấy lại sự chú ý hoặc trở nên đau khổ mà không được hài lòng, nếu như bạn giết chính mình và không được vui thích với phản ứng chung chung.
Tuy nhiên, khi người ta cố gắng giết chính họ, sự suy nghĩ của họ lúc đó thường là không hợp lý. Khi chúng ta đang trong trạng thái bình thường, chúng ta tiếp thu thế giới một cách chính xác, có chiều hướng suy nghĩ một cách hợp lý, và có một nhận thức lành mạnh về thực tế. Tuy nhiên, trong những lúc khủng hoảng, sự suy nghĩ có thể bị che khuất bởi sự lo lắng, vô vọng, và cách cư xử buông xuôi chấp nhận điều tồi tệ. Ngay cả những loại rulét (cò quay) Liên Xô bình thường này của sự tự sát (máy kiểm tra) cũng không hợp lý, mặc dù chúng ta có thể hiểu được sự suy nghĩ của nạn nhân. Những người trẻ tuổi thường thích vui chơi hay đùa nghịch với nguy hiểm. Bởi vì cái chết có vẻ như là điều quá xa vời và không có gì giống như điều họ đang làm, nhiều người có thể đùa với những khẩu súng đã lên đạn sẵn, hoặc thực hiện các cuộc đua trên những chiếc xe có động cơ với tốc độ cao bởi vì nó đem lại cho họ sự kích thích và cảm giác vui thích nào đó.
Ví dụ về sự tự sát này tạo ra vấn đề quan trọng của sự tiếp thụ. Chúng ta không thể thật sự bắt đầu hiểu được các nguyên nhân về cách cư xử của người khác cho tới khi chúng ta đã cố gắng nhìn thấy thế giới từ quan điểm của chính mình. Điều có vẻ như là không hợp lý và ngớ ngẩn từ quan điểm của một người quan sát bên ngoài có thể có lý trí nhiều hơn và được hiểu rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn thấy tình huống từ triển vọng của người hành động.
CÁC ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Căn bệnh tâm thần là một vấn đề Xã hội quan trọng, hằng năm tiêu tốn hàng triệu đô la lấy từ việc đánh thuế; và làm thất thoát hàng tỉ đồng trong các ngân quỹ, gây ra sự vắng mặt thường xuyên ở trường học hoặc nơi làm việc (thường là không có lý do chính đáng), sự thiếu hiệu năng, cách cư xử tội phạm, và sự điều trị đắt tiền; điểm đặc biệt là có hơn một nửa những người vô gia cư lang thang trên các đường phố ở Hoa Kỳ mắc căn bệnh này;20 mang lại sự khốn khổ triền miên cho hàng triệu người đang ở trong các khu ổ chuộc và họ mắc những sự rối loạn tâm thần; và gây ra sự căng thẳng không thể tin được trong các gia đình, nhiều người thất bại để hiểu hoặc để biết phải giúp như thế nào đối với những người thân thuộc bị quẫn trí của họ. Theo như cựu chủ tịch Hiệp Hội Tâm lý Hoa Kỳ (the American Psychological Association)21 “Có 10 triệu trẻ em và người lớn tàn tật về cảm xúc trong Xã hội của chúng ta cần được giúp đỡ; không phải chỉ để biết tổng con số thôi, rồi để mọi thứ ở đó, chẳng bao giờ giúp đỡ.” Các tổ chức chuyên nghiệp và chính phủ đang cố gắng chiến đấu với định kiến và sự phân biệt đối xử đối với các bệnh nhân vô phương cứu chữa phải đối diện,22 trong khi một số nhân viên liên quan đến bệnh viện đang làm việc hàng giờ liền trong các công việc đòi hỏi phải có “sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, sự kiên nhẫn của ông Gióp, sự chăm sóc của chim họa mi Florence (Florence Nightingale); tất cả đều dành tiền công như của một người được thuê để trông nom bệnh nhân.”23 Hầu như vai trò của Nhà thờ trong việc này là rất nhỏ hoặc không tồn tại.
Mặc dầu những ảnh hưởng của những sự rối loạn tâm thần có thể đo lường được bằng tiền, nhưng có vô số các trường hợp, và các số liệu thống kê khác mà người tư vấn dường như thấy nhiều người bị ảnh hưởng như thế nào và các gia đình của họ chịu đựng hoặc chiến đấu để đối đầu với chúng ra sao.
1. Những ảnh hưởng đối với nhiều người. Sylvia Frumkin là một bệnh nhân tâm thần phân liệt có bệnh hoang tưởng. Đôi khi cô nghe như có nhiều giọng nói đang nói với cô để sai khiến cô làm những điều sai trái (bất hợp pháp). Cô ăn mặc thời trang kỳ dị, nói những điều không có ý nghĩa gì cả đối với người khác và cô thấy những thứ không có ở đó. Thỉnh thoảng cô tỏ ra bạo lực, căm ghét, và nguy hiểm cho chính cô; nhưng có những lúc khác cô lại tỏ ra tươi tỉnh, minh mẫn, hiểu biết, và có thể có một cuộc giao tiếp tỏ ra khá thông minh. Frumkin đã buông xui (trôi dạt) và ở trong tình trạng tâm thần hầu như trong suốt thời kỳ trưởng thành của cô, ngoại trừ những khi cô thả lỏng và ở trong sự tiếp xúc với thực tế. Câu chuyện của cô đã được kể trong một cuốn sách đã đoạt được giải thưởng, được viết bởi một nhà báo nhạy bén là người đã tìm cách miêu tả những ảnh hưởng của căn bệnh tâm thần.24 Sự miêu tả chi tiết về một cuộc đời đã được lột tả bằng những minh họa rõ ràng về tính phức tạp và sự hoang mang, là đặc điểm của những người mang sự rối loạn tâm thần.
Không có trường hợp hai người cùng thể hiện những ảnh hưởng nhân dạng giống nhau, nhưng có một số triệu chứng được thấy là phổ biến. (Các nhà tư vấn chuyên nghiệp thường gọi chúng là “những biểu thị bàng quan của những sự rối loạn tâm thần”25). Tuy có một số triệu chứng về sinh học, nhưng những tư vấn không chuyên nghành y khoa thường chú ý hơn về cảm xúc bất bình thường thuộc tâm lý, về cảm giác, quan niệm, suy nghĩ, và cách cư xử.
(a) Cảm Xúc. Người ta biết rõ những sự rối loạn tâm thần thường mang đặc điểm lo lắng mạnh mẽ, thất vọng, giận dữ, cảm giác lầm lỗi, và những cảm xúc đau đớn khác. Những cảm giác này quá phổ biến đến nỗi một số nhà tư vấn ám chỉ những sự rối loạn tâm thần như là những sự rối loạn tương tác hoặc những sự rối loạn cảm xúc.
Những sự thay đổi cảm xúc có thể bao gồm một số loại. Sự thay đổi cảm xúc ám chỉ đến tình trạng lên xuống thất thường của cảm xúc cao độ và thỉnh thoảng không thể đoán trước được. Một số người lúc nào cảm xúc cũng dâng cao, thể hiện sự phấn khích mà những người khác có thể xem là thiếu thực tế; một số người khác thì cảm xúc lúc nào cũng nghèo nàn và thất vọng thường xuyên. Ảnh hưởng không thích hợp miêu tả về những phản ứng do cảm xúc không bình thường và thường không có nguyên nhân rõ ràng, như: cười rúc rích khi đáp ứng trước một câu chuyện buồn chẳng hạn, khóc một cách không thể kiểm soát được khi người nào đó không có gì buồn phiền, hoặc đập phá trong khi giận dữ mà không có lý do gì rõ ràng để làm như vậy. Ảnh hưởng đều đều là xu thế của một số người duy trì trạng thái không có cảm xúc, có lẽ bởi vì họ không cảm thấy hoặc không thể bày tỏ những cảm giác được.
(b) Cảm Giác Và Quan Niệm. Thật là khó để có chức năng tốt nếu như chúng ta thất bại trong việc tiếp nhận và đáp ứng một cách thích hợp trước sự kích thích từ thế giới xung quanh. Một số bệnh nhân tâm thần có sự nhạy bén được tôn lên. Việc nghe của họ có thể đặc biệt chính xác, những với cách nhìn tươi sáng hơn; hoặc thỉnh thoảng bệnh nhân không thể thư giãn hoặc tập trung được bởi vì bệnh nhân cảm thấy quá tải do ngập tràn những dữ liệu, có vẻ như đang tấn công vào những cảm giác của họ. Ngược lại, một số người khác lại kinh nghiệm sự nhạy bén cùn, gồm một khả năng giảm bớt cảm xúc đau đớn, thiếu khă năng nhìn thấy rõ ràng, hoặc nghe rõ. Đôi khi những người này gặp khó khăn trong việc phân loại và tổng hợp những cảm giác. Chẳng hạn, một số bệnh nhân bị bệnh tâm thần phân liệt gặp khó khăn khi xem ti-vi, bởi vì họ không thể vừa nhìn màn hình và lắng nghe cùng một lúc.26
Nhưng phổ biến hơn có lẽ là sự nhạy bén phóng đại trong khi bị khuấy động đã diễn giải sai/nhầm, và hấp thụ sai/nhầm về thế giới xung quanh. Những ảo tưởng (những ý tưởng sai được người ta tin, nhưng không bởi bất kỳ người nào khác), những ảo giác (những quan niệm về một người kinh nghiệm mặc dù không có sự vận động bên trong), và những ảo ảnh (những cảm giác được diễn giải sai/nhầm); tất cả được nhìn thấy ở các bệnh nhân tâm thần. Những điều này rất phổ biến và thường bị kết án mạnh mẽ, và bệnh nhân không chịu thay đổi khi chứng cớ được đề ra. Các gia đình sẽ trải qua nỗi thất vọng lớn khi họ cố gắng thuyết phục một người thân thuộc mắc phải tình trạng này, khi mà những ảo tưởng của người này về sự bắt bớ không có căn cứ hoặc nghe một giọng nói mà mọi người đều cho là không có thực.
(c) Suy Nghĩ. Một số nhà tâm thần nhận định rằng những sự rối loạn trong suy nghĩ là những dấu hiệu rõ ràng nhất của căn bệnh tâm thần. Chẳng hạn như, thường có trạng thái bằng lòng trong suy nghĩ có lỗi, ở trong người không cách suy nghĩ rõ ràng, hợp lý, hoặc liên tục.
Đôi khi điều này có thể là thật đối với mỗi người; chúng ta tiến tới những kết luận không hoàn toàn có lý hoặc không thực tế. Những người chịu đựng các nỗi ám ảnh có thể có những nỗi sợ hãi không thấy được về: chiều cao, những khoảng trống/không gian gần, hoặc những trận bão dông (sấm chớp). Một số người tỏ ra sợ hãi vô cùng biết rằng những suy nghĩ này vô lý, mặc dù họ khó có thể làm ngơ hoặc kháng cự lại chúng.27 Ngược lại, những bệnh nhân vô phương cứu chữa thậm chí không thể nhận ra suy nghĩ của mình không có ý nghĩa gì, và họ cũng không có sự vui vẻ hoặc khả năng thay đổi để sự đáp ứng trước những sự tranh cãi hoặc chứng cớ.
Một loại khác của sự suy nghĩ liên quan đến sự tiến triển suy nghĩ có lỗi. Đây có thể gồm những suy nghĩ rời rạc không nối kết với nhau, những suy nghĩ tản mạn hay lan man; suy nghĩ bị cắt ngang hay dễ dàng bị xao lãng; suy nghĩ bị ám ảnh; hoặc sự không/thiếu khả năng suy nghĩ một cách trừu tượng. Thêm vào đó, một số người tỏ ra bối rối, không chắc họ là ai hoặc họ đang ở đâu, họ không thể thích hợp với những hậu quả do cách cư xử của họ, không thể nhớ, và/hoặc bị xao lãng dễ dàng. Tất cả những vấn đề này có thể cho thấy bệnh nhân ở ngoài sự tiếp xúc với thực tế.
(d) Cách Cư Xử. Không ngạc nhiên khi bệnh nhân với cảm giác có lỗi trong quan niệm, cảm xúc, và lối suy nghĩ cũng dường như hành động trong những cách kỳ quặc hay bất thường, hoặc không thích ứng với Xã hội. Đây là điều quá phổ biến đến nỗi những sự rối loạn tâm thần thường xuyên được biết như là những sự rối loạn về cách cư xử. Hành động cực kỳ thú vị cách nghi thức, quá hiếu động, tự rút lui, cách cư xử trẻ con, thiếu sự tiết độ, sự cuồng tín về tôn giáo hoặc về chính trị, và những cách cư xử không bình thường khác có thể chỉ ra điều gì đó sai trái.
Một số người, đặc biệt là trẻ em và những người bất thường nghiêm trọng, họ không chắc thể hiện sự rối loạn bên trong họ ra sao bằng lời nói. Như một kết quả nghiên cứu cho biết, họ cố gắng giao tiếp qua cách ứng xử, thỉnh thoảng thể hiện ra ngoài những cảm giác bối rối mà họ cảm thấy bên trong. Người tư vấn hiệu quả cần cố gắng hiểu về các thông điệp của cách ứng xử có thể mang nghĩa gì.28
2. Những ảnh hưởng từ các gia đình. Mọi người hầu như đều có thể suy nghĩ cách hợp lý, kinh nghiệm về cảm xúc cách thích hợp, và đối đầu với những căng thẳng của cuộc sống cách hiệu quả nhiều hơn hay ít hơn. Khi một người khác thiếu những khả năng này, thì sự giao tiếp và sự can thiệp sẽ trở nên khó khăn nhiều hơn. Chúng ta nhận ra trẻ em sẽ hành động trong những phương cách thiếu/không trưởng thành và không thích hợp, nhưng hầu hết những người lớn vẫn chấp nhận điều này bởi vì chúng ta biết rằng những người trẻ tuổi đang học tập và chúng ta có thể gây ảnh hưởng nào đó đến cách cư xử của chúng. Khi cách cư xử không trưởng thành và không thích hợp được thấy nơi người phối ngẫu, nơi cha mẹ, hoặc con cái trưởng thành của mình, thật khó khăn hơn nhiều cho các thành viên trong gia đình có thể hiểu và đối diện với họ.
Sự khó khăn này được đề cập đến trong một bài báo phổ biến, đã gọi bệnh tâm thần phân liệt là “một cơn ác mộng gia đình”.29 Toàn bộ những cuốn sách đã được viết ra nhằm giúp các gia đình đang đối diện với các bệnh nhân tâm thần,30 và có chứng cớ cho thấy những người rối loạn tâm thần thỉnh thoảng làm cho những người thân có tâm lý ổn định hơn của họ, chán nản hoặc xuống tinh thần. Chẳng hạn như, một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng: khi các thành viên gia đình sống chung với một người thất vọng,40% trong số họ thể hiện sự phiền não, đau đớn nhiều; điều đó chứng minh rằng chính họ cũng cần được tư vấn. Những người thân cảm thấy gánh nặng đè trên vai, bởi sự lo lắng, sự mệt nhọc, những cảm giác vô vọng, và thiếu quan tâm trong các hoạt động Xã hội của người thất vọng.31
Không như các bệnh nhân tâm thần, là những người thường xuyên có được sự giúp đỡ từ các chuyên gia, các gia đình thường phải gánh chịu một mình khi đối diện với sự không đảm bảo, hoang mang, cảm giác (ô nhục) tâm thần, những sức ép về tài chánh, lầm lỗi, tự-khiển trách bản thân, những thay đổi trong những trách nhiệm gia đình, và những căng thẳng có thể theo sau, khi có một người thân bị phát hiện ra là có sự rối loạn về tâm thần.
Các gia đình khác nhau trong những nổ lực của họ khi đối đầu với điều này, nhưng nhiều người chuyển sang một số thành ngữ chồng chéo khác.32 Đầu tiên gia đình cố gắng làm ngơ hoặc giải thích không rõ ràng về cách cư xử lạ lùng của thành viên gia đình. Sau đó, cú sốc đầu tiên được nhận ra khi có một điều gì đó xảy ra quá kỳ dị hoặc quá rối loạn để làm ngơ. Kế đến là một giai đoạn rút lui và đánh giá lại khi gia đình hy vọng rằng mọi thứ sẽ có phần tốt hơn. Khi điều này thất bại xảy ra, gia đình bắt đầu tìm kiếm các nguyên nhân và cố gắng có sự điều trị. Cuối cùng các nguyên nhân của họ là sự suy sụp sự lạc quan, thỉnh thoảng đi kèm với sự chấp nhận, xa vời, và môi trường giới hạn được thể hiện trong Sơ đồ 31-2. Với khó khăn, các thành viên gia đình than khóc về sự mất mác những niềm hy vọng và những giấc mơ mà họ đã có đối với thành viên gia đình chịu đau đớn. Nếu như không có sự cải thiện nào xuất hiện, gia đình cố gắng nhận những mảnh vụn lên và học tập điều chỉnh để sống với một thành viên gia đình bị tàn tật về não (tâm thần).
Từ khi những sự rối loạn tâm thần ảnh hưởng đến quá nhiều người, công việc của người tư vấn hiếm khi bị giới hạn đối với các bệnh nhân tâm thần. Đôi khi sự tư vấn cũng phải dành cho các gia đình và đối với nhiều người khác bị ảnh hưởng.33
Các Gia đình Đối đầu với Căn bệnh Tâm thần Như thế nào?
Các gia đình đối đầu trong ba cách chung: Chấp nhận, Xa vời và/hoặc những Giới hạn Môi trường
Chấp nhận
• Nhận ra thực tế của sự không có khả năng và sự có khả năng sẽ có thể xảy ra trong một thời gian dài,
• có thể chuyển từ một phản ứng tới một hình thức đáp ứng trong việc đối đầu nhiều hơn,
• có thể làm việc hướng tới điều có thể trong tình huống của họ tốt hơn duy trì những sự trông mong thiếu/không thực tế của chính họ hoặc của thành viên gia đình của họ bị tàn tật,
• có thể cảm thấy nỗi đau đớn, cải thiện điều này, và chuyển tới những cảm giác và những cơ hội khác,
• trở nên ít mạnh mẽ,
• biết rằng bất cứ điều gì họ ok – tốt nhất là họ có thể làm vào lúc đó,
• biết rằng họ không chỉ là những người có thể có sự khác biệt.
Xa vời
• Tách chính họ khỏi những cách cư xử mà họ không thể thay đổi hoặc không nên cố gắng thay đổi,
• những cách cư xử khoan dung có thể một ít lạ lẫm đối với họ, nhưng nó không nguy hiểm hoặc tổn hại,
• không phải là trách nhiệm khẳng định ở đâu nó không cần được khẳng định,
• để cuộc sống của các thành viên gia đình khác trải ra cách tự nhiên hơn,
• để đi đến điều không có khả năng và tập trung vào điều có khả năng,
• để được tuyển chọn trong sự giúp đỡ của họ.
Những Giới hạn Môi trường
• Chắc chắn có những cách cư xử mà họ không thích,
• chắc chắn có những cách cư xử mà họ thích,
• biết những giới hạn của họ và không trông mong cho tới khi họ bị đẩy vào lề,
• sống với những giới hạn buồn rầu của họ gây ra và vượt qua chúng,
• biết rằng cấu trúc có thể giao tiếp qua sự chăm sóc,
• chăm sóc đủ, không để những người thân của họ làm điều gì tổn hại đến chính họ hoặc đến những người khác, và khích lệ những người thân của họ làm những thứ đối với những quan tâm tốt nhất cho riêng họ.
* Reproduced by permission. From LeRoy Spaniol, “Coping Strategies of Family Caregivers,” in Families of the Mentally Ill: Coping and Adaptation, ed. Agnes B. Hatfield and Harriet P. Lefley (New York: Guilford,1987),213-14
SỰ HUẤN THỊ VÀ NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Sự điều trị những sự rối loạn tâm thần có thể là một quá trình phức tạp, tốt nhất là đi kèm với các chuyên gia cùng làm việc trong các đội. Quá trình thường bắt đầu với một sự kiểm tra vật lý và tâm lý một cách hoàn thành. Đây có thể đi kèm với sự điều trị y khoa truyền thống, hóa liệu pháp (sự thực thi phản-tâm lý học, chất phản-làm giảm hoạt động thần kinh hoặc của cơ thể, đối lập-lo lắng, hoặc các loại thuốc chữa lành khác),34 tâm thần học, và thỉnh thoảng sự nằm viện hoặc cách sử dụng phương pháp chữa trị-sốc-điện.35
Cách đây nhiều năm, rất lâu, trước những kỹ thuật chữa trị hiện đại chưa được phát hiện, các bệnh nhân tâm thần đã bị đối đãi một cách tàn nhẫn: bị đánh, bỏ đói, xích (cột), làm bỏng với những bàn ủi nóng hoặc với những dụng cụ bằng sắt nóng, dìm trong nước lạnh cóng; nói cách khác là họ bị tra tấn, thường với sự phê chuẩn (đồng ý) từ Nhà thờ. Tăng lữ và những người khác vẫn giữ quan điểm – sự lạm dụng vật lý có thể đến từ ma quỷ gây ra căn bệnh. Không có cho tới đầu những năm 1800, có những phương pháp điều trị nhân tính hơn được đề suất và được sử dụng, đầu tiên được sử dụng tại Pháp và Anh, sau đó tại Hoa Kỳ.
Tâm lý học lúc trước tại Hoa Kỳ đã sử dụng cái mang thuật ngữ là “sự điều trị đạo đức” – một mục tiêu mang đặc điểm bởi sự nhân từ, tự-tôn trọng, kiên nhẫn, và các mối quan hệ ý nghĩa. Những người chữa trị đã đối đãi với các bệnh nhân nếu như họ có tâm thần minh mẫn. Sự tư vấn bao gồm sự Xã hội hóa lại qua các phép chữa trị ngày hôm nay có thể được gọi là giải trí, vật lý, nghề nghiệp, công nghiệp, âm nhạc, và vật lý. Sự điều trị đạo đức xuất hiện có một quan điểm cao trong lịch sử của những sự rối loạn cảm xúc; một phong trào đánh mất trong phong trào cải cách ngành công nghiệp theo sau.36
Bởi vì những sự tiến bộ này trong những kỹ thuật chữa trị, hầu như những sự rối loạn tâm thần được đối xử ngày hôm nay bởi các chuyên gia, nhưng những nguyên tắc của sự điều trị đạo đức có thể vẫn có ích. Cộng đồng, và đặc biệt là Nhà thờ, có thể cung cấp liên tục sự ủng hộ, sự ấm áp, sự chấp nhận, chăm sóc, và sự tiếp xúc với thực tế – các chuyên gia bận rộn thường có thời gian giới hạn để mang lại những điều này cho bệnh nhân. Đôi khi Mục sư hoặc nhà lãnh đạo Nhà thờ khác có thể giúp người bị bệnh tâm thần có sự giúp đỡ chuyên nghiệp, và Nhà thờ thường trở nên là nguồn ủng hộ lớn nhất đối với gia đình của người bệnh tâm thần.37
Giúp đỡ Các Gia đình. Cuộc sống có thể rất khó khăn cho những người phải sống với người thất vọng sâu, tự sát, có chiều hướng tỏ ra bạo lực, hoặc tàn tật não nghiêm trọng. Các thành viên gia đình thường là những người đem lại sự quan tâm chăm sóc cơ bản đối với người bệnh tâm thần, nhưng điều này tiêu tốn thời gian, năng lực, khả năng chịu đựng nhiều căng thẳng về cảm xúc, và thỉnh thoảng tiêu hao nhiều nguồn tài chánh của gia đình. Những hoạt động và những quan tâm đôi lúc vui và những lề thói hàng ngày sử dụng như thói quen hoặc không làm gián đoạn – có thể được thay đổi một cách sinh động. Những lối sống và những mục tiêu cá nhân được thay đổi. Sự tụ họp gia đình là thường quá rối loạn đến nỗi một nổ lực có ý thức được đòi hỏi nếu như gia đình vẫn giữ cảm giác hiệp nhất. Nhiều người gặp khó khăn để giữ các nhu cầu nhạy bén của người bệnh với sự không có khả năng, và để giữ các nhu cầu và những mục tiêu của các thành viên gia đình khác.38 Các gia đình này có thể được giúp đỡ như thế nào?
(a) Ủng Hộ. Các nhóm ủng hộ khác nhau tồn tại hầu mang lại sự hướng dẫn và sự khích lệ đối với các gia đình của người bệnh tâm thần. Các nhóm này được hình thành thường với những người khác – có một thành viên gia đình bệnh tâm thần, có những cái tên như là Các Gia đình Tụ họp cho Sức khỏe Tâm thần (Families Together for Mental Health), Nhóm Ủng hộ Sức khỏe Tâm thần ở Hạt (County Mental Health Support Group), Những Người Thân và Bạn bè của Người Tàn tật Não (Relatives and Friends of the Mentally Disabled), Các Gia đình của những Người Lớn bị bệnh Tâm thần (Families of Adult Mentally Ill), Nhóm Ủng hộ Bệnh Tâm thần Phân Liệt (Schizophrenia Support Group). Thỉnh thoảng chúng được liệt kê trong cuốn sổ điện thoại; sự tồn tại của chúng thường hơn có thể được truy nguyên qua các bệnh xá sức khỏe tâm thần cộng đồng hoặc những chuyên gia tư vấn tư.39
Sự ủng hộ gia đình và các nhóm ủng hộ có thể giúp các thành viên gia đình thấy được những người khác hiểu được những căng thẳng của việc sống với một người làm phiền nghiêm trọng. Các nhóm giúp đỡ những người tham dự giải quyết sự giận dữ, lầm lỗi, tự-khiển trách bản thân, và cảm giác ô danh là quá phổ biến. Các nhóm này thường giúp các gia đình học tập điều khiển và sống như thế nào với những người thân có thể thể hiện những thái độ và cách cư xử kỳ quặc, những hành động hay gay gổ và phản-xã hội khác, vẻ bề ngoài cẩu thả và vệ sinh kém, sự rút lui và sự cách ly khỏi Xã hội, những xu thế tự-hủy phá, và thỉnh thoảng những đòi hỏi thường xuyên và thiếu/không thực tế. Nhiều lãnh vực rối loạn nhiều hơn của những sự rối loạn tâm thần bây giờ có thể được kiểm soát bởi các loại thuốc, nhưng các loại thuốc này thường phải được các thành viên gia đình chấp nhận; các thành viên gia đình cảm thấy thiếu đảm bảo về trách nhiệm này. Khi một bệnh nhân tâm thần về nhà sau một giai đoạn nằm viện, gia đình có thể cần sự ủng hộ đặc biệt xuyên suốt giai đoạn khởi đầu của sự điều chỉnh lần nữa.40
Loại ủng hộ này không nên đến từ Nhà thờ chăng? Dĩ nhiên, câu trả lời là vâng (yes); nhưng trong nhiều Nhà thờ, các thành viên có ít hoặc không hiểu về những sự rối loạn tâm thần và một số người có thể hiểu về những sức ép mà các thành viên gia đình đối đầu. Ấy thế mà thân thể địa phương của các tín hữu phải là trung tâm của sự chăm sóc ủng hộ đối với những người có các thành viên gia đình thiếu/không có khả năng về tâm thần.
(b) Giáo Dục. Cho tới khi một sự rối loạn tâm thần xuất hiện, nhiều thành viên gia đình không có sự hiểu biết về tâm lý-tâm thần học. Vì thế, giáo dục trở nên là quan trọng. Các thành viên gia đình cần hiểu về tính chất và sự điều trị cho căn bệnh tâm thần, nhưng họ cũng cần sự giáo dục phải nên đối đầu với người làm phiền ấy ra sao, mang lại sự chăm sóc như thế nào, và để giữ cuộc sống cá nhân của họ ra sao để khỏi phải chịu đựng thành viên gia đình làm phiền ấy.
Nếu như họ có thể đối đầu thành công, các thành viên gia đình cần liên can chính họ đến các hoạt động, những thói quen và những sự quan tâm hài hòa cách riêng tư; nhưng không có điều gì để làm đối với căn bệnh tâm thần. Sự liên quan tại Nhà thờ; sử dụng thời gian với bạn bè; tìm kiếm công việc có ý nghĩa; theo đuổi các mục tiêu về giáo dục hoặc các mục tiêu khác; cam kết với sự luyện tập vật lý; nên tránh bớt các bữa ăn trưa định kỳ, hoặc một kỳ nghỉ nhỏ hoặc ngắn có thể chữa lành đối với các thành viên gia đình. Không có các trò tiêu khiển như thế, cuộc sống có thể ở ngoài sự cân bằng, và các thành viên gia đình trở nên khô hạn và cạn kiệt.
Sự tránh bớt có thể là khó khăn nếu như một người tàn tật cần sự chăm sóc liên tục, nếu như thành viên gia đình cảm thấy có lỗi về việc bỏ đi, nếu như người bệnh tâm thần kích thích lầm lỗi này, hoặc nếu như không có ai có thể nhận những nhiệm vụ đem lại sự chăm sóc tạm thời. Một lần nữa, Nhà thờ có thể mang lại sự ủng hộ thực tế đối với một gia đình đang bị tổn thương, và người tư vấn thỉnh thoảng có thể kích thích sự quan tâm của Nhà thờ.41
(c) Tư vấn. Thỉnh thoảng sự ủng hộ và giáo dục không đủ. Các thành viên gia đình cần sự giúp đỡ cụ thể hơn trong sự đối đầu với những cảm giác cá nhân của họ về sự không có hiệu quả, lầm lỗi, lo lắng, và sự thiếu/không đảm bảo. Từ lúc sự cạn kiệt có thể là quá đầy tràn, các thành viên gia đình chính họ có thể bắt đầu thể hiện những triệu chứng của sự làm phiền cảm xúc, và dần dần điều này có thể hướng tới sự tái phát nơi người bệnh tâm thần, đặc biệt là khi các thành viên gia đình chỉ trích, căm hận, hoặc thiếu kiên nhẫn.
Ngược lại, sự tư vấn gia đình có thể làm sự căng thẳng giảm bớt, mang lại sự khích lệ, làm tăng sự khoan dung, cho phép thể hiện những cảm xúc, giải quyết những mâu thuẫn tại nhà, và dạy dỗ các thành viên gia đình chăm sóc bệnh nhân như thế nào. Trong một nghiên cứu về bệnh tâm thần phân liệt, các cuộc gặp gỡ gia đình trong năm đầu tiên sau khi nằm viện làm giảm sự tái phát gấp sáu lần. Các cuộc gặp gỡ này có hiệu quả nhất khi họ được chăm sóc tại nhà, tốt hơn là tại bệnh xá hoặc tại văn phòng của người tư vấn.42 Những cuộc gặp gỡ như thế mang lại cơ hội cho các gia đình thấy được sức lực của họ, hỏi các câu hỏi, học tập về các nguồn từ cộng đồng, phân loại các mục tiêu, nhận biết những giới hạn của họ, và học tập những phương cách thực tiễn để tránh bớt sự gãy đổ mà không cảm thấy có lỗi hoặc lẫn tránh những trách nhiệm gia đình.43
Tư vấn và Tự sát. “Bệnh dịch” có thể là một từ bị lạm dụng nhưng nó đã được sử dụng thường xuyên và gia tăng để miêu tả sự gia tăng các tỉ lệ tự sát, đặc biệt là trong suốt ba thập niên qua. Tự sát và những cố gắng tự sát ngày càng gia tăng trong vòng những trẻ em,44 các tù nhân,45 người lớn tuổi,46 những người lớn còn trẻ tuổi,47 và đặc biệt trong vòng những thiếu niên.48 Vấn đề không giới hạn đối với các bệnh nhên tâm thần hoặc đối với những người không tin Chúa. Tự sát đã trở nên phổ biến nhanh chóng trong vòng các tín hữu, gồm cả những người truyền giảng.
Trong chương nói về sự thất vọng,50 chúng ta đã liệt kê ra một số mấu chốt được thấy nơi những người ngẫm nghĩ về sự tự sát. Những người này thường tràn ngập những cảm giác vô vọng và nhiều người thấy không có cơ hội nào hơn để giải quyết các vấn đề của họ. Tự sát có thể có vẻ giống như cách tốt nhất để thoát khỏi một tình huống chịu đựng căng thẳng,51 và một số người quá giải phóng khi cuối cùng họ quyết định phương án này mà họ có thể che đậy những dự định của họ với những nụ cười và những sự thể hiện vui vẻ giả tạo.52 Tuy nhiên, thường hơn là những mấu chốt trước êm nhẹ khi tự sát chỉ ra sự kêu cứu giúp đỡ.
Khi một người được tư vấn đưa ra những dấu hiệu của việc suy nghĩ muốn tự sát, thích hợp để hỏi một cách nhẹ nhàng nếu như điều này đang được cân nhắc. Thỉnh thoảng những người được tư vấn được giải thoát để có đề tài và có thể được thảo luận một cách cởi mở. Trong công việc nhập liệu, cố gắng quyết định nếu như người đó đã cân nhắc một phương pháp, đã lựa chọn một phương tiện dường như làm chết người (những khẩu súng làm chết người nhiều hơn là những lọ thuốc aspirin – thuốc dùng giảm đau và giảm sốt), đã cố gắng tự sát trước đó, và có một lịch sử các vấn đề nghiêm trọng hoặc sự làm phiền tâm thần. Tất cả những điều này đều làm tăng sự có khả năng muốn tự sát.
Cố gắng nhập liệu điều đã mang lại cho người được tư vấn quan điểm này của khủng hoảng.
Những giải pháp nào đã được nổ lực và thất bại để giải quyết điều này và những khủng hoảng tương tự trong quá khứ? Điều gì có thể được cố gắng trong tương lai? Khi bạn nói chuyện với người được tư vấn, thách thức những ý tưởng lãng mạn về cái chết. Chẳng hạn, những thiếu niên thỉnh thoảng suy nghĩ về bạn bè sẽ làm họ đau đớn mãi mãi và nói về những chất lượng tuyệt vời và bi thảm của nạn nhân. Chỉ ra rằng điều này không thể xảy ra, những người khác sẽ tiếp tục với cuộc sống của họ, và sự tự sát là một giải pháp lâu bền đối với điều có thể là một vấn đề tạm thời. Cố gắng thể hiện sự tôn trọng đối với người đó, không xấu hổ hoặc xem thường, tránh những sự tranh luận nếu như có thể, và để người đó biết rằng bạn chăm sóc họ. Trong tất cả những điều trên, hãy nhớ rằng tầm quan trọng là sự cầu nguyện, cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn sự khôn ngoan và sự nhạy bén.
Sự chăm sóc và sự quan tâm của bạn thường sẽ giúp tháo ngòi nổ ý tưởng tự sát, ít nhất là tạm thời; nhưng nếu như người đó vẫn giữ sự quyết định của họ, hãy cố gắng tiếp xúc với bác sĩ gia đình, một người thân gần gũi, một trung tâm ngăn chặn sự tự sát, hoặc một người tư vấn có sự huấn luyện đặc biệt trong việc giải quyết với những tình huống khẩn cấp tự sát.
Bạn làm gì nếu như có người nào đó muốn tự sát?
Những người tư vấn và các gia đình thường cảm thấy có lỗi, giận dữ, và tự-định tội bản thân bởi vì sự tự sát đã không được ngăn chặn. Đôi khi người tư vấn có thể liên quan tới việc giúp đỡ những người sống sót, nhiều người trong họ thể hiện sự sầu khổ trộn với sự hối hận. Thỉnh thoảng sự tự sát hiếm khi được đề cập cũng như bởi những người sống sót hoặc bởi những người thân, bạn bè, và các thành viên Nhà thờ là những người muốn thể hiện sự cảm thông đối với gia đình; nhưng không chắc chắn rằng nếu như họ nên đề cập nguyên nhân của cái chết. Như bất kỳ vấn đề nào khác, nỗi đau tự sát tốt nhất nên được thảo luận một cách thành thật và đầy lòng thương xót, mà không có những nổ lực tránh né nỗi đau mà những người sống sót cảm thấy.53
Đối với những người sống sót, tự sát là một kinh nghiệm đau đớn sâu sắc và tổn thương nhiều. Sống một cuộc đời, gồm cuộc sống cá nhân của người nào đó, là tội lỗi; nhưng không phải là tội lỗi không thể tha thứ được. Bạn bè gần gũi và các thành viên gia đình có thể chỉ trích chính họ vì không ngăn chặn được cái chết của người thân yêu, nhưng cuối cùng trách nhiệm đối với sự tự sát nghỉ ngơi với nạn nhân là người không thể hoặc không vui lòng đối đầu với những sức ép của cuộc sống. Những tư vấn Cơ Đốc và những người thờ phượng cùng với chúng ta trong Nhà thờ cần thể hiện lòng trắc ẩn và sự nhạy bén trong hoàn cảnh tiếp theo và là hậu quả của sự tự sát. Chúng ta phải quan tâm chăm sóc không phải để tán dương, ít nhất điều này mang lại lý do cho những người khác bắt chước ví dụ của nạn nhân.
SỰ NGĂN CHẶN NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Một vài tháng sau khi anh bị bắt vì đã cố gắng giết tổng thống, John Hinkley trẻ tuổi đã cố gắng giết chính mình. Không phải chỉ anh cố gắng, nhưng người này gần như đã thành công. Một lần nữa, gia đình anh đã phải đối diện với sự không đảm bảo, đợi chờ lâu, bối rối, và các câu hỏi “tại sao?”. Lại một lần nữa, gia đình đã phải đối diện với nỗi đau của căn bệnh tâm thần và những cuộc tiếp chuyện lâu về điều này có thể đã được ngăn chặn như thế nào.
Sự ngăn chặn căn bệnh tâm thần và sự tự sát đã trở thành một đề tài về tầm quan trọng đang gia tăng trong suốt một vài năm qua.54 Những nổ lực thường tập trung vào sự chữa trị vật lý, giáo dục, giúp đỡ những người trong cộng đồng có các vấn đề tiềm ẩn, và mang lại sự ủng hộ và sự hướng dẫn đặc biệt đối với các nhóm có mạo hiểm-cao như con cái ở tuổi người lớn nghiện rượu hoặc con cái bỏ nhà ra đi. Những đường dây nóng trong cộng đồng, các nhóm ủng hộ, và các trung tâm ngăn chặn sự tự sát đã được thành lập khắp thế giới; nhưng hiệu năng của những nổ lực này vẫn không đảm bảo.55 Thật là khó để thúc đẩy người ta liên quan đến việc ngăn chặn một vấn đề chưa xảy ra, và những ảnh hưởng của sự ngăn chặn hầu như là không thể đo lường.
Một sự thảo luận tóm gọn về sự ngăn chặn đã được đưa ra bởi nhà tâm lý học George Albee:
Hầu hết những bệnh dịch lớn đều có yếu tố con người chịu đựng qua nhiều thế kỷ, đều đã được đánh giá bởi sự ngăn chặn hiệu quả cơ bản – làm việc với các nhóm lớn gồm nhiều người chưa chịu đựng căn bệnh nhằm để đánh giá các nguồn của sự nhiễm trùng hoặc sự lây nhiễm và để thành lập sự kháng cự lại căn bệnh. . . .
Trong trường hợp những sự rối loạn tâm thần, những yếu tố chính không phải là vi khuẩn, những con vi-rút hoặc những nhân tố hữu cơ độc hại khác; nhưng một mức độ cao của sự căng thẳng trong quá khứ hay ở hiện tại đều có thể được gây ra bởi nhiều thứ, gồm các vấn đề nghiêm trọng trong hôn nhân; sự thất nghiệp vô tình; sự hoang mang và lầm lỗi về tình dục; hoặc một lịch sử trong thời thơ ấu của sự ngờ nghệch nghiêm trọng, sự lạm dụng vật lý, sự khai thác tình dục và sự thiếu tình cảm.
Để làm giảm tình trạng những sự rối loạn tâm thần qua sự ngăn chặn, chúng ta phải làm giảm các vấn đề trong ba lãnh vực – những yếu tố hữu cơ, căng thẳng và sự khai thác các loại khác nhau – và các nguồn đang gia tăng trong ba lãnh vực khác – đối diện với những kỹ năng, sự tự-đánh giá bản thân và các nhóm ủng hộ. Để mang lại chỉ một số trong nhiều ví dụ có thể trong mỗi lãnh vực, chúng ta có thể: làm giảm các vấn đề hữu cơ bằng cách cải thiện chất dinh dưỡng trong suốt thời kỳ mang thai và bởi sự làm giảm này hướng vào trong môi trường; làm giảm căng thẳng với công việc được đảm bảo, chăm sóc và nhà cửa tốt hơn đối với những người già; làm giảm sự lạm dụng trẻ em và sự khai thác phụ nữ và những người thuộc các dân tộc thiểu số; cải thiện sự cạnh tranh với việc huấn luyện sự quyết đoán và những khóa học chuẩn bị cho cuộc hôn nhân; làm tăng sự tự-đánh giá bản thân qua những sự mô tả hay thể hiện mạnh công bằng hơn của những người có tuổi, những người tàn tật, phụ nữ và các dân tộc thiểu số; và cuối cùng, và có lẽ hầu như là quan trọng, khích lệ sự phát triển xa hơn của các phong trào tự-giúp và các nhóm ủng hộ như là các chương trình chăm sóc sức khỏe tại nhà, những bữa ăn trên xe lăn tay (Meals on Wheels), các trung tâm chăm sóc ban ngày và các chương trình Anh/Chị Lớn (Big Brother/Big Sister programs). . . .
Cuộc nghiên cứu đã làm cho điều này trở nên rõ ràng, nhiều người có được sự ủng hộ từ các tổ chức như thế giúp cảm xúc của họ tốt nhiều hơn những người đối diện với các vấn đề của họ một mình.56
Đây là sự đề suất sáng tạo, một đề suất liên quan đến sự can thiệp vào tất cả mọi mức độ của Xã hội; nhưng một chương trình hướng tới những năng lực tiềm tàng, các nguồn, và thời gian sẵn sàng đối với hầu hết những nhà tư vấn. Ngay cả khi ông phát biểu công khai nhằm ủng hộ “sự ngăn chặn qua sự thay đổi Xã hội,” Albee kết luận rằng, đây là “một sự ngã ngũ nhưng là niềm hy vọng tồn đọng.”57
Không một người nào, một trung tâm tư vấn, cộng đồng hoặc Hội Thánh có thể làm mọi thứ; nhưng mỗi chúng ta có thể tạo nên một lãnh vực nào đó của nhu cầu và làm việc nhằm ngăn chặn các vấn đề khỏi trở nên tồi tệ hơn. Một số người sẽ làm việc trong các chương trình ngăn chặn ma túy hoặc trong các trung tâm ngăn chặn sự tự sát. Những người khác sẽ tập trung vào việc làm phong phú cho cuộc hôn nhân, tư vấn trước khi nghỉ hưu hoặc sự phục hồi cuộc ly hôn. Một số người sẽ kích thích sự phát triển của các nhóm ủng hộ nhằm giúp những người sống sót sau khi tự sát, các bậc cha mẹ của những đứa con bị tàn tật, những em thiếu niên mang thai không kết hôn, con cái của những người nghiện rượu, hoặc những người khác có thể phát triển những sự rối loạn cảm xúc nghiêm trọng hơn.
Hội Thánh có một vai trò quan trọng góp phần vào nổ lực này. Chúa Jêsus đã thể hiện sự cảm thông, thương xót, sự quan tâm, chăm sóc, và sự quan tâm-xã hội, ngay cả khi Ngài rao giảng Phúc-âm và kêu gọi mọi người ăn năn. Chúng ta cũng có thể tìm những phương cách để làm trọn Đại Mạng Lệnh trong khi chúng ta cũng đang chăm sóc những người thiếu thốn, gồm cả những bệnh nhân tâm thần và những người đặc biệt dễ mắc bệnh tâm thần chăng?
CÁC KẾT LUẬN VỀ NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Trong giữa những năm 1960, các nhà chức trách liên bang và các nhà chuyên gia về sức khỏe tâm thần đã bắt đầu một chương trình đầy tham vọng nhằm hủy bỏ từng bước các bệnh viện tâm thần lớn và chuyển những bệnh nhân tâm thần vào các trung tâm điều trị cộng đồng tiện ích và có nhân tính hơn. Đây là một ý tưởng sáng tạo nhưng có vẻ như sẽ gặp thất bại. Các bệnh viện được dãn dân, nhưng lại không đủ nhà cửa, chăm sóc chỉ tạm thời trong thời kỳ đang có biến đổi, và huấn luyện công việc để có thể hòa nhập các bậc cha mẹ vào trong Xã hội. Như là một kết quả nghiên cứu, đã có vô số các bệnh nhân tâm thần tràn ngập trên các đường phố, và chúng ta phải tạo ra một tầng lớp mới cho những người thiếu thốn: người vô gia cư bị bệnh tâm thần.
Tuy nhiên, có nguyên nhân đối với niềm hy vọng. Mặc dầu sự phổ biến về những sự rối loạn tâm thần và những tiện nghi điều trị bị giới hạn, nhưng vẫn có nhiều người thật sự tốt hơn. Trong cuối những năm 1950, các nhà nghiên cứu đã tuyển chọn một mẫu trong những bệnh nhân bệnh mãn tính nhất (giai đoạn ba-thấp nhất) tại Bệnh viện Tiểu bang Vermont và chỉ định cho họ một chương trình phục hồi. Cuối cùng, tất cả đều được hòa nhập vào trong cộng đồng. Hơn 30 năm sau đó,68% trong 168 những bệnh nhân cũ vẫn còn sống, phát hiện ra họ vẫn có chức năng phù hợp và không có dấu hiệu nào về những rối loạn tâm thần. Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng “đối lập với sự sa sút được dự tính và tình trạng trở nên xấu đi đối với bệnh tâm thần phân liệt hoặc đối với căn bệnh nghiêm trọng nào khác, và những sự rối loạn tâm thần kinh niên, các triệu chứng có thể được cải thiện tốt hơn qua thời gian và chức năng có thể được hồi phục.”59
Có lần Chúa Jêsus đã nói trước rằng: người nghèo sẽ luôn luôn ở với chúng ta. Có lẽ điều này có thể cũng được nói cho những người có những sự rối loạn tâm thần. Tuy nhiên, dường như chỉ có Phúc Âm có thể đến gần với người nghèo (cũng như người giàu), vì thế Lời của Đức Chúa Trời có thể đem lại sự khuây khỏa và sự hướng dẫn cho những người bệnh tâm thần và cho cả những người lành mạnh hơn. Việc giúp đỡ những người bệnh tâm thần và các gia đình của họ là một trong những thách thức lớn nhất đối với người tư vấn Cơ Đốc.
Christian Counseling- Gary R]. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Bennett, George. When the Mental Patient Comes Home. Philadelphia: Westminster,1980.*
Blackburn, Bill. What You Should Know about Suicide. Waco, Tex.: Word,1982.*
Hatfield, Agnes B., and Harriet P. Lefley, eds. Families of the Mentally Ill: Coping and Adaptation. New York: Guilford,1987.
Maxmen, Jerrold S. Essential Psychopathology. New York: Norton,1986.
Torrey, E. Fuller. Surviving Schizophrenia: A Family Manual. New York: Harper & Row,1983.*
Wolman, Benjamin B., ed. The Therapist’s Handbook: Treatment Methods of Mental Disorders. 2d ed. New York: Van Nostrand Reinhold,1983.
Dysfunctional Mental
DOUG LÀ MỘT SINH VIÊN ĐẠI HỌC đang theo học môn quản trị kinh doanh. Anh cũng là một bệnh nhân tâm thần. Khi gia đình của anh còn đang sống ở Atlanta, Doug không có các vấn đề bất bình thường này. Bạn bè gọi anh là một người sống đơn độc, nhưng anh vẫn kết thân được với nhiều người khác, vẫn duy trì được mức độ trung bình “B” ở trường, và vẫn có một công việc bán thời gian nơi mà anh rất thích. Cha anh là một người đàn ông kinh doanh thành công nhưng có chiều hướng trở thành một người nghiện rượu, nhưng điều này dường như không có ảnh hưởng gì đến Doug hoặc hai người em gái của anh. Mọi thành viên trong gia đình anh đều có chiều hướng khá độc lập trong mọi việc.
Khi cha của anh chuyển công việc kinh doanh sang đầu tư ở nước ngoài, Doug đã gặp một vài trở ngại trong việc điều chỉnh này, và anh đã dự định sẽ bỏ học sớm, vì thế anh chẳng bao giờ cố gắng để thích ứng với cộng đồng mới. Mọi người đều nghĩ rằng anh có thể sẽ vào đại học, sau đó nhận một mảnh bằng về kinh doanh, và theo bước chân của cha anh trong lãnh vực kinh doanh.
Trong suốt năm thứ nhất ở trường đại học, Doug càng ngày càng trở nên rút lui. Anh không còn quan tâm đến việc đi Nhà thờ, mặc dầu gia đình anh luôn luôn tham dự các buổi thờ phượng trong ngày Chúa Nhật tại nhà. Anh hiếm khi đi đến các câu lạc bộ của trường, trong Xã hội, mọi việc cứ thế trôi qua và anh đã bắt đầu bỏ các buổi đến lớp thường xuyên hơn. Khi Doug bắt đầu bỏ các bữa ăn, một số sinh viên khác đã thể hiện sự quan tâm về cách cư xử rút lui này của anh, nhưng Doug đã nói với họ rằng anh thường thích được ở một mình. Cuối cùng, các sinh viên khác từ bỏ việc cố gắng quan tâm hoặc liên quan đến anh nữa.
Một buổi sáng nọ, khi khu ký túc xá yên tĩnh và hầu hết các sinh viên đang ở trong lớp học, Doug đã cố gắng treo mình lên phía trên các dãy ghế trong phòng hội trường của trường, phần gần sân khấu nhất. Một người làm việc trong khu ký túc xá của trường đã phát hiện ra anh và đưa anh vào bệnh viện. Khi nghe về tin tức này, gia đình anh rất bối rối. Cha mẹ của Doug thắc mắc không biết họ đã làm điều gì sai chăng. Hai cô em gái của Doug cảm thấy xấu hổ và không muốn bạn bè mình biết tại sao Doug phải nhập viện, hoặc biết anh đang nằm trong khu tâm thần của bệnh viện. Không một ai trong gia đình anh có thể hiểu tại sao một sinh viên đại học trẻ tuổi, đẹp trai như anh lại có thể muốn chết bởi chính tay của mình, và các thành viên gia đình không có một ý tưởng gì và không biết trông mong điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Người cha của Doug rất lo lắng, đã hỏi người tư vấn của nhà trường: “Con trai tôi sẽ đỡ hơn chứ? Nó sẽ còn cố gắng giết chính nó nữa sao? Có còn niềm hy vọng nào đối với tương lai của nó chứ?” Gia đình của Doug đã nổ lực đối đầu với thế giới của căn bệnh tâm thần và họ đã không chắc sẽ tìm thấy nơi nào mà họ có thể nhận được sự hướng dẫn rõ ràng, sự khích lệ và giúp đỡ cụ thể.
Jack và Jo Ann Hinckley đã đối diện với một tình trạng rất khó xử và tồi tệ (tiến thoái lưỡng nan) vào ngày 30 tháng 3 năm 1981. Đứa con trai 25 tuổi của họ đang ở thủ phủ của một tiểu bang rất xa gia đình, ở tận Colorado, anh đang đứng giữa một đám đông bên ngoài khách sạn Hilton Washington. Trong tay anh đang cầm một khẩu súng đã lên đạn được giấu trong túi quần của anh, cách sợ sệt và lo lắng. Khi đối tượng chen qua giữa đám đông trước khách sạn và bước nhanh tới chiếc xe limousine (loại xe hòm, xe hơi to sang trọng đặc biệt có tấm kính ngăn cách người lái xe và hành khách) đang đợi sẵn bên ngoài, John Hinckley nhắm ngay mục tiêu, bóp cò súng, và cố ám sát vị tổng thống Hoa Kỳ. Các sự kiện chung quanh buổi sáng bi thảm ấy đã đi vào lịch sử. Ronald Reagan và một vài người khác đã ngã xuống (họ đã bị trúng đạn), nhưng sau đó đã được chữa trị hồi phục. Có thể lúc đó kẻ ám sát đã bị vật mạnh lên mặt đất, bị tống vào trại giam, và cuối cùng bị gởi vào bệnh viện tâm thần, là nơi mà anh vẫn còn ở đó cho tới lúc chết.
Trong một chốc, sau khi trải qua bao tranh chiến, cha mẹ của anh đã hiểu ra vấn đề. Họ chưa từng bao giờ biết về bất kỳ người nào mắc một căn bệnh vô phương cứu chữa, và họ cũng thắc mắc không hiểu tại sao trong khi hai đứa con gái của họ là những sinh viên ưu tú và là những lãnh đạo nổi bật, nhưng một đứa con khác thì đã cố gắng giết người. Hàng tháng trôi qua sau vụ ám sát, sự cố gắng của gia đình là một ác mộng về sự sầu não và thất vọng. Cuộc sống riêng tư của gia đình đã trở nên công khai trên các phương tiện truyền thông, nhiều người xem xét cẩn thận và tỉ mỉ, có thể nói là cả thế giới đều biết đến; sự kiện này được công chúng biết đến nhiều về Hinckley. Sự tổn thương càng lớn khi hành động này được kết luận bởi lời phán quyết của tòa, cho rằng anh không có lỗi bởi vì bị mất trí hay bị điên, đã có một sự phản đối công khai mạnh mẽ toàn quốc gia.
Jack và Jo Ann Hickley đã không hành xử như thảm kịch của gia đình họ. Thay vì thế, họ đã thành lập Ngân sách Sức khỏe cho các Bệnh Nhân Tâm thần ở Hoa Kỳ (the American Mental Health Fund), nhằm ủng hộ việc nghiên cứu và mang lại sự giáo dục phổ cập về căn bệnh tâm thần. Cha mẹ anh đã quyết định để những người khác biết về sự phổ biến và thực tế của căn bệnh tâm thần là một vấn đề rất nghiêm trọng. Không chỉ nghĩ cho mình, họ đã tìm cách vận động cho việc nghiên cứu nhằm có thể làm tăng sự hiểu biết về những nguyên nhân và cách điều trị cho những sự rối loạn não. Họ đã hết sức tận tâm trước việc ngăn chặn những sự rối loạn về não, nhờ đó các gia đình khác có thể chuẩn bị sẵn và đối phó với những sự rối loạn tương tự; và thảm kịch này đã làm thức tỉnh cuộc sống của họ, khi cảm xúc của đứa con trai bị căng thẳng và nó đã tìm cách giết tổng thống.1
Vậy, căn bệnh tâm thần là gì? Thuật ngữ này miêu tả về những triệu chứng rộng và lớn khác nhau, chúng mang đến sự thất vọng và/hoặc sự thiếu khả năng hay không có khả năng trong cuộc sống cá nhân, đối với Xã hội, hoặc trong nghề nghiệp của bệnh nhân. Sự thất vọng và sự không/thiếu khả năng có thể là nhẹ và chỉ ảnh hưởng chút ít, nhưng chúng cũng có thể trở nên rối loạn nhiều hơn và thỉnh thoảng mạnh mẽ hơn và nghiêm trọng. Trong những trường hợp rối loạn nhẹ, các triệu chứng rất khó được phát hiện. Bệnh nhân vẫn mang chức năng tốt trong tất cả mọi phần trong cơ thể, vẫn quan tâm và liên quan với nhiều hoạt động rộng rãi, kết thân tốt với những người khác; nói chung họ biểu hiện sự hài lòng với cuộc sống, và không có lo lắng nhiều hay có các vấn đề gì trong cuộc sống. Về một phương diện khác, sự suy nghĩ của những người này có thể được phóng đại thêm, sự giao tiếp của họ có thể có trục trặc, sự tiếp xúc của họ với thực tế là yếu kém, họ gặp khó khăn để kết thân với những người khác, họ thường không thể có chức năng gì trong Xã hội, và họ có thể đang ở trong mối nguy hiểm có nguy cơ gây hại đến những người khác và tự-làm hại bản thân.
Những nhà tư vấn chuyên nghiệp gọi những biểu hiện về căn bệnh tâm thần như trên, là gì? Đó là tình trạng mất trí hay bị điên, hoặc những sự lo lắng cao độ? Dường như họ gọi chung là bệnh tâm thần, cảm xúc bị rối loạn, hoặc đó là những sự rối loạn về não. Một thuật ngữ mới được Hiệp Hội Tâm thần Hoa Kỳ (the American Psychiatric Association) sử dụng trong cuốn sách giáo khoa phân loại về căn bệnh này (được biết phổ biến là DSM-III-R),2 và đây là thuật ngữ sẽ được dùng nhiều nhất ở trong chương này.
Những sự rối loạn về não không phải tất cả đều giống nhau. Có vài trăm sự rối loạn đã được nhận dạng và phân thành các loạI tùy theo những triệu chứng và tính nghiêm trọng của sự yếu kém. Chẳng hạn, cứ trong một trăm người dân Mỹ thì gần như có một người bị rối loạn bởi căn bệnh tâm thần phân liệt tấn công vào một lúc nào đó trong suốt cuộc sống của họ. Bệnh có thể là nhẹ, tiềm ẩn, hoặc có thể là nghiêm trọng, mạnh mẽ. Bệnh có những nguyên nhân khác nhau và bệnh có thể được chia thành một số loại, mỗi loại có các triệu chứng riêng của nó được liệt kê ra, chỉ một số loại có thể có mặt trong bất kỳ người nào đó. Bệnh có thể đi xa hơn phạm vi của cuốn sách này mà chúng ta có thể miêu tả, thậm chí cả với những sự rối loạn tâm thần chủ yếu; nhưng Bảng 31-1 mang lại một cái nhìn tổng quát đặt nền tảng trên sự phân loại DSM-III-R của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (the American Psychiatric Association’s DSM-III-R). Mặc dầu chúng có thể không giống với tất cả mọi sự rối loạn, nhưng những người tư vấn có thể nhờ đó nhận ra các triệu chứng chủ yếu của bệnh tâm thần, có thể hiểu một số nguyên nhân phổ biến gây ra sự rối loạn não, và nên biết giúp đỡ như thế nào đối với các bệnh nhân tâm thần và cho các gia đình của họ.3
Bảng 31-1
Những Rối loạn Tâm thần Chủ yếu
1. Những sự rối loạn thường rõ ràng trước tiên ở thời kỳ vị thành niên, thời thơ ấu, hoặc thời thanh niên:
• Những sự rối loạn về cách cư xử rối loạn
• Những sự rối loạn lo lắng về thời thơ ấu hoặc thời thanh niên
• Những sự rối loạn trong việc ăn uống
• Những sự rối loạn trong việc nhận dạng về giống
• Những sự rối loạn về tật giật mình (thỉnh thoảng các cơ lại giật một cách tự phát, nhất là ở mặt)
• Những sự rối loạn loại trừ
• Những sự rối loạn trong ngôn ngữ nói – không phải được phân loại ở nơi nào khác
• Những sự rối loạn khác ở thời kỳ vị thành niên, thời thơ ấu hoặc thời thanh niên
9. Những hội chứng và những sự rối loạn tâm thần hữu cơ (có hệ thống)
• Sự gia tăng chứng mất trí trong các chất Senium và Presenium (tại đây bao gồm bệnh Alzheimer/bệnh mất trí nhớ và chứng mất trí lão suy)
• Những sự rối loạn tâm thần hữu cơ gây ra-chất tâm thần-tích cực/Psychoactive (bao gồm sự thoái suy não kết hợp với chứng nghiện rượu và các hình thức khác của trạng thái say xỉn với các chất, như các loại tân dược tổng hợp, đặc biệt là các chất kích thích/amphetamine; thuốc dùng để gây mê và những loại tân dược được người nghiện dùng thay thế chất ma túy/cocaine; các chất ma túy gây ra ảo giác/hallucinogen; và các chất độc hại khác)
• Những sự rối loạn tâm thần hữu cơ kết hợp với những sự rối loạn vật lý hoặc những điều kiện vật lý, hay với nguyên nhân sinh học (nguyên nhân bệnh/etiology, aetiology) chưa biết đến.
10. Những sự rối loạn trong việc lạm dụng chất Psychoactive (chất tâm thần-tích cực)
Bao gồm sự phụ thuộc và sự lạm dụng alcohol, caphêin là chất kích thích có ở trong lá chè và hột cà phê (caffeine), cocaine (thuốc dùng để gây mê và những người nghiện dùng làm chất ma túy), hallucinogen (các chất ma túy gây ra ảo giác), các chất để ngửi (chứa trong dụng cụ làm bốc hơi thuốc vào một bình xịt nhỏ để hít) – inhalant, ni-cô-tin (chất độc hại có trong thuốc lá – nicotine), thuốc an thần (sedative) và các chất khác.
11. Bệnh tâm thần phân liệt (Schizophrenia)
Đây gồm các triệu chứng liên quan đến sự căng cứng cơ bắp và trạng thái sững sờ hoặc gần như bất động do bị choáng váng vì ma túy, rượu (hầu như thấy nhiều ở các bệnh nhân tâm thần phân liệt) – catatonic/catatonia; sự rối loạn tổ chức hay còn gọi là rối loạn hữu cơ; bệnh hoang tưởng (paranoid); các loại không phân biệt và các loại còn lại.
12. Sự rối loạn ảo tưởng, ảo giác hay chứng hoang tưởng tự đại (delusional) hoặc gọi là bệnh hoang tưởng (paranoid)
Đây gồm các loại triệu chứng với erotomanic, cường điệu (được vạch ra theo một quy mô lớn), đố kỵ, khủng bố, somatic (tế bào trong cơ thể đối lập với sự tái sản sinh hoặc tế bào phôi hay còn gọi là mầm bệnh) và các loại không cụ thể khác.
13. Những sự rối loạn thần kinh không được phân loại ở nơi nào khác
14. Những sự rối loạn tâm trạng
• Những sự rối loạn tại hai cực (gồm những sự rối loạn suy giảm-vui buồn thất thường hỗn hợp và những sự rối loạn vui buồn thất thường)
• Những sự rối loạn suy giảm
15. Những sự rối loạn-lo lắng
Đây gồm những sự rối loạn sợ hãi, ám ảnh, những sự rối loạn ám ảnh-hấp dẫn gây ra, và sự rối loạn căng thẳng xảy ra sau khi bị chấn thương.
16. Những sự rối loạn mang hình thức từ mầm bệnh (somatoform disorders)
Đây là những sự rối loạn liên quan đến cơ thể, bao gồm những sự rối loạn về chứng nghi bệnh và những sự rối loạn chuyển đổi.
17. Những sự rối loạn bị phân tách
Những sự rối loạn này bao gồm sự rối loạn cá tính bội số, chứng quên về di truyền tâm thần, và sự rối loạn làm giảm cá tính.
18. Những sự rối loạn tình dục
• Chứng hay bảo vệ (ưa người khác), bao gồm thói thích phô trương, sự kích dục, predophilia, sự thống dâm – có được sự thích thú, khoái lạc, (nhất là trong tình dục) từ sự đau khổ hoặc nhục nhã của bản thân, tính ác dâm (có khoái cảm tình dục từ các trò tàn ác), sự mặc quần áo của người khác phái như một khuynh hướng tình dục, và thói nhòm lỗ khóa.
• Những sự rối loạn chức năng tình dục (gồm sự khao khát tình dục dướI mức tích cực, sự không thích rõ ràng đối với tình dục, những sự rối loạn làm thức tỉnh tình dục, những sự rối loạn về sự cực khoái và những sự rối loạn đau đớn tình dục)
19. Những sự rối loạn trong giấc ngủ
Đây là những sự rối loạn bao gồm chứng mất ngủ, những sự rối loạn trong lịch trình ngủ và thức, những cơn ác mộng, sự rối loạn triền miên trong giấc ngủ, mộng du (hay miên hành) và chứng bảo vệ khi ngủ.
20. Những sự rối loạn giả tạo (không tự nhiên)
Đây là những sự rối loạn mà các triệu chứng vật lý và tâm lý là giả vờ
21. Những sự rối loạn xung lực (đột ngột) không được phân loại ở nơi nào khác
Đây là những rối loạn gồm bệnh ăn cắp vặt (thói táy máy), thói cờ bạc bệnh hoạn (làm liều vì mối lợi có thể có), chứng cuồng phóng hỏa và những sự rối loạn kiểm soát xung lực.
22. Những sự rối loạn có thể điều chỉnh
Bao gồm những sự khó khăn điều chỉnh kết hợp với:
• Tâm trạng lo lắng
• Tâm trạng thất vọng
• Sự bối rối từ phẩm hạnh
• Những sự phàn nàn vật lý
• Sự rút lui
• Sự ức chế trong công việc hoặc trên lý thuyết
23. Những nhân tố tâm lý ảnh hưởng đến điều kiện vật lý
24. Những sự rối loạn cá tính
Đây là những sự rối loạn gồm: bệnh hoang tưởng, chứng loạn thần kinh, tính khó gần, cá tính thuộc giữa hai nhóm hoặc hai loại khác nhau, và tính tự yêu mình.
25. Những điều kiện không có thể quy cho sự rối loạn tâm thần, nhưng tập trung sự chú ý hoặc sự điều trị vào:
• Vấn đề lý thuyết
• Cách cư xử khó gần (phản xã hội)
• Sự giả vờ ốm (để tránh việc hoặc nhiệm vụ)
• Vấn đề trong hôn nhân
• Không hành động phù hợp với sự điều trị y khoa
• Vấn đề nghề nghiệp
• Vấn đề giữa cha/mẹ-con cái
• Vấn đề bên trong với cá nhân khác
• Các tình huống khác trong từng gia đình cụ thể
• Thời kỳ của vấn đề cuộc sống hoặc tình huống cuộc sống khác
• Tình trạng mất người thân không phức tạp
KINH THÁNH VÀ NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Kinh Thánh nói rất ít về những sự rối loạn tâm thần, nhưng tâm lý-tâm thần học đã được phát hiện ra và có lẽ là phổ biến, đặc biệt là khi không có các loại thuốc cho tâm lý liệu pháp hoặc các phương pháp chữa trị hiện đại. Có lần vua Đa-vít đã giả vờ mất trí. Cách cư xử của ông chỉ là giả đò, nhưng điều này đã mang lại một cái nhìn rõ ràng về một số triệu chứng nào đó về tâm lý-tâm thần học đã được thấy ở thời Cựu Ước. Đa-vít “giả-đò điên-cuồng trước mặt chúng, và làm bộ dại-khờ giữa họ; người vẽ gạch dấu trên cửa và để nước miếng chảy trên râu mình.”4
Nhiều năm sau đó, vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đã có một giấc chiêm bao đã được Đa-ni-ên giải nghĩa:
Đây là điều được phán truyền cho ngươi, vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Lời chưa ra khỏi miệng vua, thì có tiếng từ trên trời xuống rằng: Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đã lìa khỏi ngươi. Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc phải ăn cỏ như bò, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận-biết rằng Đấng Rất Cao cai-trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý.”
“Trong chính giờ đó, lời nói ấy đã ứng-nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua bị đuổi khỏi giữa loài người; ăn cỏ như bò; thân-thể vua phải thấm-nhuần sương-móc trên trời, cho đến tóc vua cũng mọc như lông chim ưng, móng vua thì giống như móng loài chim-chóc.”5
Trong Tân Ước, Phê-tu đã ngăn cản sự rao truyền Phúc Âm của Phao-lô và nói lớn lên rằng: “Hỡi Phao-lô, ngươi lảng-trí rồi; ngươi học biết nhiều quá đến nỗi ra điên-cuồng.”6 Ở một chỗ khác trong Kinh Thánh, chúng ta đọc biết Chúa Jêsus đã chữa lành những người “bị quỷ ám, hoặc mắc bệnh phong điên, hoặc bị tàn tật.”7
Từ “insane” được dịch là “mất trí”; từ này được viết ra trong một câu Kinh Thánh, nhưng nó có nhiều nghĩa khác nhau trong tiếng Anh và chúng được dùng tạI nhiều chỗ trong Kinh Thánh tiếng Anh (“điên cuồng, lảng trí, ngu dại, …). Chẳng hạn như, trong bản King James (The King James Version), từ này được dùng như là thuật ngữ “lunatic” (điên rồ) hơn là “insane” (mất trí); nhưng trong một số bản dịch hiện đạI thì ám chỉ về những cơn tai biến cao huyết áp. Trong bản Kinh Thánh hiện đại NIV (The New International Version) nói rằng: Chúa Jêsus đã chữa lành “những người phải chịu đau-đớn quá, những người bị quỷ ám, những người mắc bệnh phong-điên, và những người tàn tật hay què quặt”; nhưng bản Kinh Thánh Chuẩn Mới của Mỹ (the New American Standard Bible) thì sử dụng từ “epileptics” (bệnh động kinh) thay thế cho từ “mắc bệnh phong điên” (having seizures).
Tâm thần học hiện đại có thể xem bệnh động kinh như là một sự rối loạn tâm lý não thỉnh thoảng khiến bệnh nhân mắc bệnh phong điên, nhưng không nên coi điều này ngang với sự mất trí (tình trạng bị điên). (Trong cách dùng hiện đại, sự mất trí là một thuật ngữ hợp lý được dùng để miêu tả những người như John Hinckley, Jr., là người được xem là không có lỗi hay không phạm những hành động tội lỗi như giết người, bởi vì họ là những người mất trí). Hầu như những tư vấn Cơ Đốc tin về sự ma ám hay bị quỷ ám,8 họ có thể đồng ý đó là căn bệnh vật lý, bệnh động kinh, những sự rối loạn não; và sự bị quỷ ám là những thuật ngữ ám chỉ đến những điều kiện khác nhau, mặc dù nhiều triệu chứng là tương tự như nhau.
Kinh Thánh không tự nhận là một cuốn sách giáo khoa chẩn đoán, nhưng Kinh Thánh mang lại một số ví dụ về sự tự sát (gồm những cái chết của vua Sau-lơ, khi ông dùng gươm rồi sấn mình trên mũi nó và chết; và Giu-đa là kẻ phản Chúa, sau đó tự treo cổ tự tử)9 và Kinh Thánh có sự ám chỉ đến nhiều cảm xúc hình thành nên nền tảng của những sự rối loạn tâm thần: lo lắng, giận dữ, bất hòa, ghen tỵ, thù ghét, nhục dục, chia rẻ, hoài bão ích kỷ, thiếu kiên nhẫn, thiếu sự tiết độ, thờ hình tượng, những cuộc chè chén trác táng (điên cuồng), sự không chung thủy trong tình dục, thói phàm ăn, say sưa, xung đột (cãi lẫy), nói dối, bạo lực, và một số những sự rối loạn khác.
Từ điều này cho thấy, Kinh Thánh không bàn đến những sự rối loạn tâm thần luôn có liên quan hoặc đến từ tội lỗi trong cuộc sống của người khổ sở. Một số người như Đa-vít, vị vua đã giả đò có một số triệu chứng không bình thường cho các mục đích riêng của ông. Nhiều người khác, như vua Nê-bu-cát-nết-sa, tâm lý-tâm thần của vua xảy ra bởi vì ông đã từ chối vâng lời Đức Chúa Trời một cách có chủ tâm. Những người khác như Gióp. Ông là người vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác. Các vấn đề cảm xúc và vật lý của ông xảy ra vì các nguyên nhân khác hơn là vì tội lỗi cá nhân. Cuối cùng, tất cả những sự rối loạn vật lý và tâm thần xảy ra là bởi vì tội lỗi đã vào trong thế gian cách đây nhiều thế kỷ. Kinh Thánh dạy: tất cả chúng ta đều là những tội nhân; và vì điều này, Kinh Thánh không theo những kết quả tâm lý-tâm thần cần thiết từ những hành động tội lỗi cá nhân của chính nạn nhân.
CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG SỰ
RỐI LOẠN TÂM THẦN
Theo một nghiên cứu tiêu tốn hàng triệu đô la, bởi Viện Quốc gia về Sức Khỏe Tâm thần (the National Institute of Mental Health) cho thấy, vào bất kỳ thời điểm nào cứ trong số năm người lớn thì có gần một người chịu đựng sự rối loạn tâm thần. Mức độ nghiêm trọng của những sự rối loạn này được xếp từ sự tàn tật-lo lắng nhẹ cho đến bệnh tâm thần phân liệt nghiêm trọng. Các tỷ lệ ở mỗi nơi mỗi khác, và có một con số khác biệt về tuổi tác. (Khi đem so sánh với những người lớn tuổi hơn, những người dưới 45 khoảng gấp 2 lần tỷ lệ có những sự rối loạn tâm thần). Nói chung, căn bệnh tâm thần được chia ra cách cân bằng giữa người nam và người nữ, mặc dù có những khác biệt về loại vấn đề. Phụ nữ thường chịu đựng nhiều thất vọng và mang nhiều nỗi ám ảnh, sợ hãi hơn; đàn ông có các vấn đề về lạm dụng ma túy và rượu chè hoặc có những cá tính khó gần hơn.10
Các nguyên nhân của những sự rối loạn này mỗi người khác nhau và liên quan với loại rối loạn não. Nếu như được đến thăm một bệnh viện tâm thần, chúng ta có thể phát hiện ra hai loại bệnh nhân vớI cùng một sự chẩn đoán tương tự, nhưng tiểu sử cuộc sống của họ khác nhau trước khi họ phải nằm viện. Chỉ như là sự lên cơn tim (bệnh tim) và bệnh viêm ruột thừa có các nguyên nhân khác nhau, vì thế những sự rối loạn tâm thần khác nhau.
Mặc dầu mỗi trường hợp là đồng nhất, những sự rối loạn tâm thần xuất hiện từ một sự kết hợp những căng thẳng hiện tại và những ảnh hưởng dễ gây bệnh trong quá khứ.
1. Căng thẳng hiện tại. Có phải cuộc sống ngày nay căng thẳng hơn cách đây một thế kỷ chăng? Điều này có thể được thảo luận – những sức ép lớn hơn vào thời gian này trong lịch sử bởi vì bước chân phát triển hiện tại và sự phức tạp của cuộc sống, những thay đổi kỹ thuật đòi hỏi cần có sự điều chỉnh liên tục, và những khả năng trong giao tiếp mang lại cho chúng ta thông tin tức thời về những căng thẳng bên trong mỗi cá nhân hoặc các vấn đề trong môi trường hàng xóm.
Những căng thẳng hướng tới căn bệnh tâm thần có thể được chia ít nhất thành 3 loại: sinh (vật) học, tâm lý, và Xã hội. Những căng thẳng sinh học bao gồm bệnh của cơ thể, ảnh hưởng của ma túy, những độc tố hoặc những chất gây ô nhiễm ở trong không khí, sự tổn thương não, hoặc tình trạng nghèo khổ về vật chất như sự thiếu các chất dinh dưỡng hoặc thiếu ngủ. Việc cảm thấy quá mệt mõi và bạn dường như thiếu kiên nhẫn và thất vọng. Việc lừ đừ, kiệt sức và những dấu hiệu bất bình thường ngày một nhiều hơn, ít nhất cho tới khi bạn có thời gian nghỉ ngơi.
Những căng thẳng tâm lý gồm những sự thất vọng cá nhân, những mâu thuẫn bên trong, các nỗi sợ hãi, và những cảm giác không đảm bảo. Qua một số bài báo phát hành thường xuyên miêu tả về các vụ tự sát của những sinh viên quẫn trí vì mình thiếu/không có khả năng để thi đậu trong các kỳ thi quan trọng. Trong một Xã hội mà các giá trị thành công và khả năng có thể đạt được điều gì đó, rất khó cho một số người để đối diện với sự thất bại, đặc biệt là nếu như họ có những tiêu chuẩn quá cao đối với chính họ, hoặc cảm thấy bị áp đặt từ các thầy cô giáo, các công nhân, và các thành viên trong gia đình.
Sức ép từ gia đình có thể là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về mặt Xã hội, đẩy một số người hướng tới những sự rối loạn tâm thần. Khi không có sự đảm bảo về kinh tế, thất nghiệp lan tràn, hoặc nền chính trị thiếu ổn định; một số người sẽ không thể giải quyết căng thẳng và có những sự không chắc chắn. Ngay cả môi trường vật lý cũng có một ảnh hưởng. Các giai đoạn thời tiết nóng kéo dài, tối tăm, chật chội, ồn ào, hoặc những tình huống căng thẳng khác cũng có thể gây ra khó khăn hơn trong việc đối diện với chúng và làm tăng nguy cơ khiến những sự rối loạn tâm thần xảy ra.11
2. Những ảnh hưởng dễ gây bệnh. Mặc dầu những căng thẳng có thể là tương tự, nhưng nhiều người thể hiện chúng ra trong những cách khác nhau. Trên các trang báo thỉnh thoảng người ta miêu tả về tình trạng tiếp theo và là hậu quả của một cơn lốc xoáy hoặc trong các điều kiện thời tiết mang tính hủy phá khác. Cùng một sự mất mác nhưng vừa có thể để lại cho một người cảm giác thất vọng và bị ngăn cản, lại có thể kích thích một người khác có những hành động thương xót và sự quyết định thắng vượt nỗi đau mất mác đó.
Những khác biệt như trên thường phản chiếu nền tảng và những kinh nghiệm trong quá khứ của người đó. Giống như sự căng thẳng hiện tại, những ảnh hưởng dễ gây bệnh này có thể bao gồm một số loại. Những căn bệnh sinh học dễ mắc gồm những ảnh hưởng của di truyền, sức khỏe vật lý ở quá khứ, các nhược điểm bẩm sinh, sự rối loạn chức năng về tuyến, và những ảnh hưởng vật lý khác. Chẳng hạn, sự thất vọng nghiêm trọng có thể gây ra bởi sự căng thẳng, nhưng điều kiện dường như là tồi tệ hơn ở một số người, bởi vì những ảnh hưởng di truyền và những sự không cân bằng hóa học-thần kinh.12
Những bệnh dễ mắc về tâm lý gồm những ảnh hưởng từ sự bất hòa trong gia đình lúc trước, những sự mất mác ở thời thơ ấu, những tổn thương trong quá khứ, việc cha/mẹ làm ngơ hoặc sự lạm dụng của cha/mẹ, cảm giác có lỗi trong học tập, việc bị khước từ trước kia, hoặc sự dạy dỗ đòi hỏi quá nhiều và quá cứng nhắc đến nỗi người này luôn luôn cảm thấy như mình là một sự thất bại. Một nghiên cứu về những sự rối loạn căng thẳng sau khi bị chấn thương (PTSD) đã so sánh những cựu chiến binh Việt Nam, là những người không thể hiện triệu chứng nào về sự rối loạn, với những người đã bị rối loạn. Trái với các đồng nghiệp không bị ảnh hưởng của họ, những cựu chiến binh (PSTD) này được ghi nhận là trong thời gian chiến đấu họ có nhiều bạn bè bị tử trận hơn, họ có liên quan nhiều đến việc giết hại những người khác, có các mối quan hệ gần gũi hơn với những người đã chết, có những thương tích trong chiến trận nhiều hơn, và những kinh nghiệm tiêu cực nhiều hơn tại nhà sau khi họ giải ngũ. Nhiều cựu chiến binh trong số này đã có những thái độ bảo toàn thiên vị hướng về chiến tranh, nhưng những kinh nghiệm chấn thương của họ tại Việt Nam đi kèm với việc thiếu sự ủng hộ khi họ trở về nhà, kết hợp với việc tạo ra lo lắng, thất vọng, và những chứng cớ khác về sự bất bình thường lâu dài sau khi chiến tranh kết thúc.13
Những sự rối loạn tâm thần cũng có thể phụ thuộc vào những bệnh dễ mắc mang tính Xã hội. Những sự rối loạn này gồm tầng lớp Xã hội của người đó, nơi ăn chốn ở, tình trạng hôn nhân, mức độ kinh tế-xã hội, sự sáp nhập tôn giáo, hoặc thành viên trong một nhóm người thiểu số. Chẳng hạn, khi đem so sánh với sự giàu có, những người nghèo khổ có chiều hướng có các tỉ lệ cao hơn về tâm lý-tâm thần học. Người nghèo có ít sự điều khiển trên những tình huống của họ, và bởi vì họ thiếu các nguồn mà họ phải đợi chờ sự chữa trị cho tới khi các vấn đề của họ càng nghiêm trọng hơn. Những người có tiền nhiều hơn hoặc có thể trả được những khoản tiền bảo hiểm, họ có được sự tư vấn sớm hơn và dường như ít nằm viện hơn người nghèo hoặc ít được liệt kê trong khoa học thống kê về số người có những sự rối loạn tâm thần.
3. Tội lỗi và trách nhiệm. Một số học giả Cơ Đốc và các tư vấn Cơ Đốc khẳng định rằng những sự rối loạn tâm thần hầu như là kết quả từ tội lỗi cá nhân, và sự tư vấn liên quan tới những người đang được thúc giục để xưng ra tội lỗi của họ và thay đổi cách cư xử của họ. Quan điểm đơn giản và cả tin này thất bại khi có ấn tượng về sự phức tạp của những sự rối loạn tâm thần và ảnh hưởng sâu sắc, thấm nhuần của tội lỗi.
Tội lỗi có thể được xem từ hai triển vọng: những tội lỗi có chủ tâm và nhận thức được mà nhiều người phạm phảI; và sự phạm tội bẩm sinh (nguyên tội) là một phần bản chất của con người. Trong một cách tương tự, trách nhiệm có thể được xem từ hai triển vọng: tôi chịu trách nhiệm hoặc người nào đó chịu trách nhiệm. Vì thế, khi một người bệnh vô phương cứu chữa, vấn đề có thể đến từ những hành động tội lỗi của người đó và/hoặc bản chất tội lỗi của người đó; trách nhiệm cuối cùng đối với vấn đề có thể đến từ người được tư vấn và/hoặc từ một người khác. Điều này có thể được thể hiện trong một biểu đồ đơn giản (được chấp nhận từ công việc của nhà tâm lý Cơ Đốc Bruce Narramore).14
Các nguyên nhân của những sự rối loạn tâm thần xuất hiện từ tất cả bốn góc của thước đo độ và sự chữa trị sẽ phải cân nhắc tất cả cùng 4 điểm:
(a) Góc I. Ở đây người có các vấn đề bởi vì điều gì đó tội lỗi (hoặc điều ngớ ngẩn) mà người đó đã làm. Trách nhiệm đối với vấn đề và sự chữa trị giúp cho người đó nghỉ ngơi nhiều. Sự xưng tội, cách cư xử thay đổi, và việc học tập lại là những sự chữa trị trong số các sự chữa trị thích hợp nhất.
(b) Góc II. Đây liên quan tới cách cư xử tội lỗi hoặc cách cư xử tổn hại khác xuất phát từ một người nào khác, không phải là người được tư vấn. Chẳng hạn như, một người với những cảm giác lớn về sự thấp kém hơn và sự tự-đánh giá bản thân thấp có thể đã phát triển những thái độ này, bởi vì những lời chỉ trích tội lỗi xem thường liên tục đến từ giáo viên, cha/mẹ, hoặc người phối ngẫu hay sự chỉ trích quá khe khắt (nhất là về những lỗi lầm lặt vặt). Con cái lớn là những đứa nghiện rượu thường chịu đựng bởi việc uống rượu từ người cha/mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ. Sự điều trị có thể liên quan tới việc giúp đỡ những người này tha thứ, thay đổi các quan niệm, và giải quyết những tổn thương chịu đựng lâu dài, sự cay đắng, và những kỷ niệm đau lòng.
(c) Góc III. Điều này giới thiệu về một bức tranh phức tạp hơn. Một số người phát triển những sự rối loạn tâm thần không bởi các tội lỗi cụ thể, nhưng do họ bị thúc đẩy bởi những nỗi sợ hãi sâu sắc, những sự không đảm bảo, những sự không/chưa trưởng thành, sự ngu dốt, những chấn thương trong quá khứ, những ảnh hưởng vật lý được thừa hưởng, những thái độ làm tổn hại, hoặc các lãnh vực khác về cá tính xảy ra, bởi chúng ta đang sống trong một thế giới băng hoại và tất cả đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tội lỗi. Những người Pha-ri-si trong thời Chúa Jêsus là những người có cách cư xử công bình mẫu mực, nhưng trong lòng họ đầy sự tham lam, luông tuồng, đạo đức giả, tội ác, và có thể nhiều sự xấu hổ và tự dốI mình.15 Giúp đỡ những người này chỉ có thể là dẫn họ đến với sự khai sáng và sự hiểu biết gia tăng, sự xưng tội, và sự vui lòng để Đức Chúa Trời làm việc nhằm tẩy sạch, thay đổi, và mang lại sự trưởng thành cho cuộc sống tâm linh. Đây là một tiến trình có thể phải mất nhiều thời gian và chữa trị sâu hơn.
(d) Góc IV. Nhiều vấn đề cá nhân xảy ra bởi vì chúng ta sống trong một thế giới mà tội lỗi đã thấm vào nền văn hóa: nơi có sự mâu thuẫn, căng thẳng, nghèo đói, phân biệt giai cấp, chiến tranh, bệnh tật, và sự bất công trải khắp. Trước khi Đấng Christ quay trở lại để mang sự công bằng hoàn hảo và tiêu trừ tội lỗi, thì những điều kiện bệnh hoạn này sẽ cứ tồn tại gây ra sự tàn phá Xã hội và những sự rối loạn tâm thần cá nhân. Mặc dầu chiến trường sẽ chẳng bao giờ được chiến thắng hoàn toàn cho đến khi Đấng Christ trở lại, các Cơ Đốc Nhân có trách nhiệm chống cự lại sự bất công trong Xã hội, làm việc vì hòa bình, và phấn đấu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Những người tư vấn có trách nhiệm tìm cách thay đổi những hoàn cảnh ấy nhằm đem lại bệnh (lý) học, dạy dỗ người khác đối diện với căng thẳng ra sao, và giúp những người được tư vấn chiến thắng những ảnh hưởng tồn đọng của những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ.
Những sự rối loạn tâm thần hiếm khi xuất hiện từ chỉ bởi một trong 4 góc này. Đa số hầu như là những sự ảnh hưởng đến từ một số góc. Điều này mang lại một thách thức lớn hơn trong những nổ lực của chúng ta nhằm tìm kiếm các nguyên nhân và mang lại sự điều trị hiệu quả.
4. Tự sát. Thỉnh thoảng vì sức ép của cuộc sống và gặp quá nhiều căng thẳng nên nhiều người quyết định sống cuộc sống riêng cho mình. Hầu hết đều có suy nghĩ về ý tưởng này trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng trước đó.16 Những hành động tự sát của họ hiếm khi là đột ngột, hấp tấp, hoặc tình cờ (mặc dù có những trường hợp bi thảm như là những động cơ tự sát của thiếu niên, nơi mà sự chú ý xảy ra theo sau sự tự sát, hướng những thiếu niên khác cố gắng bắt chước làm điều nào đó tương tự). Có thể hầu hết những người cố gắng hoặc phạm tội tự sát thành công không phải đều mắc căn bệnh vô phương cứu chữa.17 Vậy thì tại sao có một số người quay trở lại những hành động tự-hủy hoại chính mình? Có thể có các nguyên nhân khác nhau:18
• Giải thoát khỏi: sự cô độc, vô vọng, các vấn đề của việc làm cha làm mẹ, thất vọng, những khó khăn trong suy nghĩ hoặc trong công việc, những sức ép về tài chánh, hoặc những sự mâu thuẫn với những người khác.19
• Trừng phạt những người còn sống để họ luôn cảm thấy đau đớn và dằn vặt.
• Lấy lại sự chú ý.
• Vận động những người khác (thường điều này có thể được hoàn thành tốt nhất bởi sự đe dọa sẽ tự sát).
• Chung dự với một người rất đỗi yêu thương đã qua đời.
• Tránh sự trừng phạt.
• Sửa phạt chính mình vì điều gì đó đã gây ra lầm lỗi.
• Ngăn chặn chính mình khỏi việc trở thành một gánh nặng cho những người khác.
• Tránh sự chịu đựng và những ảnh hưởng khác của một căn bệnh kinh khiếp nào đó.
• Tìm kiếm sự đau khổ hoặc cái chết của người tử vì đạo, vì nghĩa…
Một số nguyên nhân trong danh sách trên có vẻ không hợp lý hay lôgic. Chẳng hạn, không có gì chắc chắn về việc tự sát sẽ có thể khiến nạn nhân thu phục một người bị giảm tình yêu thương từ những người khác. Lấy lại sự chú ý hoặc trở nên đau khổ mà không được hài lòng, nếu như bạn giết chính mình và không được vui thích với phản ứng chung chung.
Tuy nhiên, khi người ta cố gắng giết chính họ, sự suy nghĩ của họ lúc đó thường là không hợp lý. Khi chúng ta đang trong trạng thái bình thường, chúng ta tiếp thu thế giới một cách chính xác, có chiều hướng suy nghĩ một cách hợp lý, và có một nhận thức lành mạnh về thực tế. Tuy nhiên, trong những lúc khủng hoảng, sự suy nghĩ có thể bị che khuất bởi sự lo lắng, vô vọng, và cách cư xử buông xuôi chấp nhận điều tồi tệ. Ngay cả những loại rulét (cò quay) Liên Xô bình thường này của sự tự sát (máy kiểm tra) cũng không hợp lý, mặc dù chúng ta có thể hiểu được sự suy nghĩ của nạn nhân. Những người trẻ tuổi thường thích vui chơi hay đùa nghịch với nguy hiểm. Bởi vì cái chết có vẻ như là điều quá xa vời và không có gì giống như điều họ đang làm, nhiều người có thể đùa với những khẩu súng đã lên đạn sẵn, hoặc thực hiện các cuộc đua trên những chiếc xe có động cơ với tốc độ cao bởi vì nó đem lại cho họ sự kích thích và cảm giác vui thích nào đó.
Ví dụ về sự tự sát này tạo ra vấn đề quan trọng của sự tiếp thụ. Chúng ta không thể thật sự bắt đầu hiểu được các nguyên nhân về cách cư xử của người khác cho tới khi chúng ta đã cố gắng nhìn thấy thế giới từ quan điểm của chính mình. Điều có vẻ như là không hợp lý và ngớ ngẩn từ quan điểm của một người quan sát bên ngoài có thể có lý trí nhiều hơn và được hiểu rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn thấy tình huống từ triển vọng của người hành động.
CÁC ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Căn bệnh tâm thần là một vấn đề Xã hội quan trọng, hằng năm tiêu tốn hàng triệu đô la lấy từ việc đánh thuế; và làm thất thoát hàng tỉ đồng trong các ngân quỹ, gây ra sự vắng mặt thường xuyên ở trường học hoặc nơi làm việc (thường là không có lý do chính đáng), sự thiếu hiệu năng, cách cư xử tội phạm, và sự điều trị đắt tiền; điểm đặc biệt là có hơn một nửa những người vô gia cư lang thang trên các đường phố ở Hoa Kỳ mắc căn bệnh này;20 mang lại sự khốn khổ triền miên cho hàng triệu người đang ở trong các khu ổ chuộc và họ mắc những sự rối loạn tâm thần; và gây ra sự căng thẳng không thể tin được trong các gia đình, nhiều người thất bại để hiểu hoặc để biết phải giúp như thế nào đối với những người thân thuộc bị quẫn trí của họ. Theo như cựu chủ tịch Hiệp Hội Tâm lý Hoa Kỳ (the American Psychological Association)21 “Có 10 triệu trẻ em và người lớn tàn tật về cảm xúc trong Xã hội của chúng ta cần được giúp đỡ; không phải chỉ để biết tổng con số thôi, rồi để mọi thứ ở đó, chẳng bao giờ giúp đỡ.” Các tổ chức chuyên nghiệp và chính phủ đang cố gắng chiến đấu với định kiến và sự phân biệt đối xử đối với các bệnh nhân vô phương cứu chữa phải đối diện,22 trong khi một số nhân viên liên quan đến bệnh viện đang làm việc hàng giờ liền trong các công việc đòi hỏi phải có “sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, sự kiên nhẫn của ông Gióp, sự chăm sóc của chim họa mi Florence (Florence Nightingale); tất cả đều dành tiền công như của một người được thuê để trông nom bệnh nhân.”23 Hầu như vai trò của Nhà thờ trong việc này là rất nhỏ hoặc không tồn tại.
Mặc dầu những ảnh hưởng của những sự rối loạn tâm thần có thể đo lường được bằng tiền, nhưng có vô số các trường hợp, và các số liệu thống kê khác mà người tư vấn dường như thấy nhiều người bị ảnh hưởng như thế nào và các gia đình của họ chịu đựng hoặc chiến đấu để đối đầu với chúng ra sao.
1. Những ảnh hưởng đối với nhiều người. Sylvia Frumkin là một bệnh nhân tâm thần phân liệt có bệnh hoang tưởng. Đôi khi cô nghe như có nhiều giọng nói đang nói với cô để sai khiến cô làm những điều sai trái (bất hợp pháp). Cô ăn mặc thời trang kỳ dị, nói những điều không có ý nghĩa gì cả đối với người khác và cô thấy những thứ không có ở đó. Thỉnh thoảng cô tỏ ra bạo lực, căm ghét, và nguy hiểm cho chính cô; nhưng có những lúc khác cô lại tỏ ra tươi tỉnh, minh mẫn, hiểu biết, và có thể có một cuộc giao tiếp tỏ ra khá thông minh. Frumkin đã buông xui (trôi dạt) và ở trong tình trạng tâm thần hầu như trong suốt thời kỳ trưởng thành của cô, ngoại trừ những khi cô thả lỏng và ở trong sự tiếp xúc với thực tế. Câu chuyện của cô đã được kể trong một cuốn sách đã đoạt được giải thưởng, được viết bởi một nhà báo nhạy bén là người đã tìm cách miêu tả những ảnh hưởng của căn bệnh tâm thần.24 Sự miêu tả chi tiết về một cuộc đời đã được lột tả bằng những minh họa rõ ràng về tính phức tạp và sự hoang mang, là đặc điểm của những người mang sự rối loạn tâm thần.
Không có trường hợp hai người cùng thể hiện những ảnh hưởng nhân dạng giống nhau, nhưng có một số triệu chứng được thấy là phổ biến. (Các nhà tư vấn chuyên nghiệp thường gọi chúng là “những biểu thị bàng quan của những sự rối loạn tâm thần”25). Tuy có một số triệu chứng về sinh học, nhưng những tư vấn không chuyên nghành y khoa thường chú ý hơn về cảm xúc bất bình thường thuộc tâm lý, về cảm giác, quan niệm, suy nghĩ, và cách cư xử.
(a) Cảm Xúc. Người ta biết rõ những sự rối loạn tâm thần thường mang đặc điểm lo lắng mạnh mẽ, thất vọng, giận dữ, cảm giác lầm lỗi, và những cảm xúc đau đớn khác. Những cảm giác này quá phổ biến đến nỗi một số nhà tư vấn ám chỉ những sự rối loạn tâm thần như là những sự rối loạn tương tác hoặc những sự rối loạn cảm xúc.
Những sự thay đổi cảm xúc có thể bao gồm một số loại. Sự thay đổi cảm xúc ám chỉ đến tình trạng lên xuống thất thường của cảm xúc cao độ và thỉnh thoảng không thể đoán trước được. Một số người lúc nào cảm xúc cũng dâng cao, thể hiện sự phấn khích mà những người khác có thể xem là thiếu thực tế; một số người khác thì cảm xúc lúc nào cũng nghèo nàn và thất vọng thường xuyên. Ảnh hưởng không thích hợp miêu tả về những phản ứng do cảm xúc không bình thường và thường không có nguyên nhân rõ ràng, như: cười rúc rích khi đáp ứng trước một câu chuyện buồn chẳng hạn, khóc một cách không thể kiểm soát được khi người nào đó không có gì buồn phiền, hoặc đập phá trong khi giận dữ mà không có lý do gì rõ ràng để làm như vậy. Ảnh hưởng đều đều là xu thế của một số người duy trì trạng thái không có cảm xúc, có lẽ bởi vì họ không cảm thấy hoặc không thể bày tỏ những cảm giác được.
(b) Cảm Giác Và Quan Niệm. Thật là khó để có chức năng tốt nếu như chúng ta thất bại trong việc tiếp nhận và đáp ứng một cách thích hợp trước sự kích thích từ thế giới xung quanh. Một số bệnh nhân tâm thần có sự nhạy bén được tôn lên. Việc nghe của họ có thể đặc biệt chính xác, những với cách nhìn tươi sáng hơn; hoặc thỉnh thoảng bệnh nhân không thể thư giãn hoặc tập trung được bởi vì bệnh nhân cảm thấy quá tải do ngập tràn những dữ liệu, có vẻ như đang tấn công vào những cảm giác của họ. Ngược lại, một số người khác lại kinh nghiệm sự nhạy bén cùn, gồm một khả năng giảm bớt cảm xúc đau đớn, thiếu khă năng nhìn thấy rõ ràng, hoặc nghe rõ. Đôi khi những người này gặp khó khăn trong việc phân loại và tổng hợp những cảm giác. Chẳng hạn, một số bệnh nhân bị bệnh tâm thần phân liệt gặp khó khăn khi xem ti-vi, bởi vì họ không thể vừa nhìn màn hình và lắng nghe cùng một lúc.26
Nhưng phổ biến hơn có lẽ là sự nhạy bén phóng đại trong khi bị khuấy động đã diễn giải sai/nhầm, và hấp thụ sai/nhầm về thế giới xung quanh. Những ảo tưởng (những ý tưởng sai được người ta tin, nhưng không bởi bất kỳ người nào khác), những ảo giác (những quan niệm về một người kinh nghiệm mặc dù không có sự vận động bên trong), và những ảo ảnh (những cảm giác được diễn giải sai/nhầm); tất cả được nhìn thấy ở các bệnh nhân tâm thần. Những điều này rất phổ biến và thường bị kết án mạnh mẽ, và bệnh nhân không chịu thay đổi khi chứng cớ được đề ra. Các gia đình sẽ trải qua nỗi thất vọng lớn khi họ cố gắng thuyết phục một người thân thuộc mắc phải tình trạng này, khi mà những ảo tưởng của người này về sự bắt bớ không có căn cứ hoặc nghe một giọng nói mà mọi người đều cho là không có thực.
(c) Suy Nghĩ. Một số nhà tâm thần nhận định rằng những sự rối loạn trong suy nghĩ là những dấu hiệu rõ ràng nhất của căn bệnh tâm thần. Chẳng hạn như, thường có trạng thái bằng lòng trong suy nghĩ có lỗi, ở trong người không cách suy nghĩ rõ ràng, hợp lý, hoặc liên tục.
Đôi khi điều này có thể là thật đối với mỗi người; chúng ta tiến tới những kết luận không hoàn toàn có lý hoặc không thực tế. Những người chịu đựng các nỗi ám ảnh có thể có những nỗi sợ hãi không thấy được về: chiều cao, những khoảng trống/không gian gần, hoặc những trận bão dông (sấm chớp). Một số người tỏ ra sợ hãi vô cùng biết rằng những suy nghĩ này vô lý, mặc dù họ khó có thể làm ngơ hoặc kháng cự lại chúng.27 Ngược lại, những bệnh nhân vô phương cứu chữa thậm chí không thể nhận ra suy nghĩ của mình không có ý nghĩa gì, và họ cũng không có sự vui vẻ hoặc khả năng thay đổi để sự đáp ứng trước những sự tranh cãi hoặc chứng cớ.
Một loại khác của sự suy nghĩ liên quan đến sự tiến triển suy nghĩ có lỗi. Đây có thể gồm những suy nghĩ rời rạc không nối kết với nhau, những suy nghĩ tản mạn hay lan man; suy nghĩ bị cắt ngang hay dễ dàng bị xao lãng; suy nghĩ bị ám ảnh; hoặc sự không/thiếu khả năng suy nghĩ một cách trừu tượng. Thêm vào đó, một số người tỏ ra bối rối, không chắc họ là ai hoặc họ đang ở đâu, họ không thể thích hợp với những hậu quả do cách cư xử của họ, không thể nhớ, và/hoặc bị xao lãng dễ dàng. Tất cả những vấn đề này có thể cho thấy bệnh nhân ở ngoài sự tiếp xúc với thực tế.
(d) Cách Cư Xử. Không ngạc nhiên khi bệnh nhân với cảm giác có lỗi trong quan niệm, cảm xúc, và lối suy nghĩ cũng dường như hành động trong những cách kỳ quặc hay bất thường, hoặc không thích ứng với Xã hội. Đây là điều quá phổ biến đến nỗi những sự rối loạn tâm thần thường xuyên được biết như là những sự rối loạn về cách cư xử. Hành động cực kỳ thú vị cách nghi thức, quá hiếu động, tự rút lui, cách cư xử trẻ con, thiếu sự tiết độ, sự cuồng tín về tôn giáo hoặc về chính trị, và những cách cư xử không bình thường khác có thể chỉ ra điều gì đó sai trái.
Một số người, đặc biệt là trẻ em và những người bất thường nghiêm trọng, họ không chắc thể hiện sự rối loạn bên trong họ ra sao bằng lời nói. Như một kết quả nghiên cứu cho biết, họ cố gắng giao tiếp qua cách ứng xử, thỉnh thoảng thể hiện ra ngoài những cảm giác bối rối mà họ cảm thấy bên trong. Người tư vấn hiệu quả cần cố gắng hiểu về các thông điệp của cách ứng xử có thể mang nghĩa gì.28
2. Những ảnh hưởng từ các gia đình. Mọi người hầu như đều có thể suy nghĩ cách hợp lý, kinh nghiệm về cảm xúc cách thích hợp, và đối đầu với những căng thẳng của cuộc sống cách hiệu quả nhiều hơn hay ít hơn. Khi một người khác thiếu những khả năng này, thì sự giao tiếp và sự can thiệp sẽ trở nên khó khăn nhiều hơn. Chúng ta nhận ra trẻ em sẽ hành động trong những phương cách thiếu/không trưởng thành và không thích hợp, nhưng hầu hết những người lớn vẫn chấp nhận điều này bởi vì chúng ta biết rằng những người trẻ tuổi đang học tập và chúng ta có thể gây ảnh hưởng nào đó đến cách cư xử của chúng. Khi cách cư xử không trưởng thành và không thích hợp được thấy nơi người phối ngẫu, nơi cha mẹ, hoặc con cái trưởng thành của mình, thật khó khăn hơn nhiều cho các thành viên trong gia đình có thể hiểu và đối diện với họ.
Sự khó khăn này được đề cập đến trong một bài báo phổ biến, đã gọi bệnh tâm thần phân liệt là “một cơn ác mộng gia đình”.29 Toàn bộ những cuốn sách đã được viết ra nhằm giúp các gia đình đang đối diện với các bệnh nhân tâm thần,30 và có chứng cớ cho thấy những người rối loạn tâm thần thỉnh thoảng làm cho những người thân có tâm lý ổn định hơn của họ, chán nản hoặc xuống tinh thần. Chẳng hạn như, một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng: khi các thành viên gia đình sống chung với một người thất vọng,40% trong số họ thể hiện sự phiền não, đau đớn nhiều; điều đó chứng minh rằng chính họ cũng cần được tư vấn. Những người thân cảm thấy gánh nặng đè trên vai, bởi sự lo lắng, sự mệt nhọc, những cảm giác vô vọng, và thiếu quan tâm trong các hoạt động Xã hội của người thất vọng.31
Không như các bệnh nhân tâm thần, là những người thường xuyên có được sự giúp đỡ từ các chuyên gia, các gia đình thường phải gánh chịu một mình khi đối diện với sự không đảm bảo, hoang mang, cảm giác (ô nhục) tâm thần, những sức ép về tài chánh, lầm lỗi, tự-khiển trách bản thân, những thay đổi trong những trách nhiệm gia đình, và những căng thẳng có thể theo sau, khi có một người thân bị phát hiện ra là có sự rối loạn về tâm thần.
Các gia đình khác nhau trong những nổ lực của họ khi đối đầu với điều này, nhưng nhiều người chuyển sang một số thành ngữ chồng chéo khác.32 Đầu tiên gia đình cố gắng làm ngơ hoặc giải thích không rõ ràng về cách cư xử lạ lùng của thành viên gia đình. Sau đó, cú sốc đầu tiên được nhận ra khi có một điều gì đó xảy ra quá kỳ dị hoặc quá rối loạn để làm ngơ. Kế đến là một giai đoạn rút lui và đánh giá lại khi gia đình hy vọng rằng mọi thứ sẽ có phần tốt hơn. Khi điều này thất bại xảy ra, gia đình bắt đầu tìm kiếm các nguyên nhân và cố gắng có sự điều trị. Cuối cùng các nguyên nhân của họ là sự suy sụp sự lạc quan, thỉnh thoảng đi kèm với sự chấp nhận, xa vời, và môi trường giới hạn được thể hiện trong Sơ đồ 31-2. Với khó khăn, các thành viên gia đình than khóc về sự mất mác những niềm hy vọng và những giấc mơ mà họ đã có đối với thành viên gia đình chịu đau đớn. Nếu như không có sự cải thiện nào xuất hiện, gia đình cố gắng nhận những mảnh vụn lên và học tập điều chỉnh để sống với một thành viên gia đình bị tàn tật về não (tâm thần).
Từ khi những sự rối loạn tâm thần ảnh hưởng đến quá nhiều người, công việc của người tư vấn hiếm khi bị giới hạn đối với các bệnh nhân tâm thần. Đôi khi sự tư vấn cũng phải dành cho các gia đình và đối với nhiều người khác bị ảnh hưởng.33
Các Gia đình Đối đầu với Căn bệnh Tâm thần Như thế nào?
Các gia đình đối đầu trong ba cách chung: Chấp nhận, Xa vời và/hoặc những Giới hạn Môi trường
Chấp nhận
• Nhận ra thực tế của sự không có khả năng và sự có khả năng sẽ có thể xảy ra trong một thời gian dài,
• có thể chuyển từ một phản ứng tới một hình thức đáp ứng trong việc đối đầu nhiều hơn,
• có thể làm việc hướng tới điều có thể trong tình huống của họ tốt hơn duy trì những sự trông mong thiếu/không thực tế của chính họ hoặc của thành viên gia đình của họ bị tàn tật,
• có thể cảm thấy nỗi đau đớn, cải thiện điều này, và chuyển tới những cảm giác và những cơ hội khác,
• trở nên ít mạnh mẽ,
• biết rằng bất cứ điều gì họ ok – tốt nhất là họ có thể làm vào lúc đó,
• biết rằng họ không chỉ là những người có thể có sự khác biệt.
Xa vời
• Tách chính họ khỏi những cách cư xử mà họ không thể thay đổi hoặc không nên cố gắng thay đổi,
• những cách cư xử khoan dung có thể một ít lạ lẫm đối với họ, nhưng nó không nguy hiểm hoặc tổn hại,
• không phải là trách nhiệm khẳng định ở đâu nó không cần được khẳng định,
• để cuộc sống của các thành viên gia đình khác trải ra cách tự nhiên hơn,
• để đi đến điều không có khả năng và tập trung vào điều có khả năng,
• để được tuyển chọn trong sự giúp đỡ của họ.
Những Giới hạn Môi trường
• Chắc chắn có những cách cư xử mà họ không thích,
• chắc chắn có những cách cư xử mà họ thích,
• biết những giới hạn của họ và không trông mong cho tới khi họ bị đẩy vào lề,
• sống với những giới hạn buồn rầu của họ gây ra và vượt qua chúng,
• biết rằng cấu trúc có thể giao tiếp qua sự chăm sóc,
• chăm sóc đủ, không để những người thân của họ làm điều gì tổn hại đến chính họ hoặc đến những người khác, và khích lệ những người thân của họ làm những thứ đối với những quan tâm tốt nhất cho riêng họ.
* Reproduced by permission. From LeRoy Spaniol, “Coping Strategies of Family Caregivers,” in Families of the Mentally Ill: Coping and Adaptation, ed. Agnes B. Hatfield and Harriet P. Lefley (New York: Guilford,1987),213-14
SỰ HUẤN THỊ VÀ NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Sự điều trị những sự rối loạn tâm thần có thể là một quá trình phức tạp, tốt nhất là đi kèm với các chuyên gia cùng làm việc trong các đội. Quá trình thường bắt đầu với một sự kiểm tra vật lý và tâm lý một cách hoàn thành. Đây có thể đi kèm với sự điều trị y khoa truyền thống, hóa liệu pháp (sự thực thi phản-tâm lý học, chất phản-làm giảm hoạt động thần kinh hoặc của cơ thể, đối lập-lo lắng, hoặc các loại thuốc chữa lành khác),34 tâm thần học, và thỉnh thoảng sự nằm viện hoặc cách sử dụng phương pháp chữa trị-sốc-điện.35
Cách đây nhiều năm, rất lâu, trước những kỹ thuật chữa trị hiện đại chưa được phát hiện, các bệnh nhân tâm thần đã bị đối đãi một cách tàn nhẫn: bị đánh, bỏ đói, xích (cột), làm bỏng với những bàn ủi nóng hoặc với những dụng cụ bằng sắt nóng, dìm trong nước lạnh cóng; nói cách khác là họ bị tra tấn, thường với sự phê chuẩn (đồng ý) từ Nhà thờ. Tăng lữ và những người khác vẫn giữ quan điểm – sự lạm dụng vật lý có thể đến từ ma quỷ gây ra căn bệnh. Không có cho tới đầu những năm 1800, có những phương pháp điều trị nhân tính hơn được đề suất và được sử dụng, đầu tiên được sử dụng tại Pháp và Anh, sau đó tại Hoa Kỳ.
Tâm lý học lúc trước tại Hoa Kỳ đã sử dụng cái mang thuật ngữ là “sự điều trị đạo đức” – một mục tiêu mang đặc điểm bởi sự nhân từ, tự-tôn trọng, kiên nhẫn, và các mối quan hệ ý nghĩa. Những người chữa trị đã đối đãi với các bệnh nhân nếu như họ có tâm thần minh mẫn. Sự tư vấn bao gồm sự Xã hội hóa lại qua các phép chữa trị ngày hôm nay có thể được gọi là giải trí, vật lý, nghề nghiệp, công nghiệp, âm nhạc, và vật lý. Sự điều trị đạo đức xuất hiện có một quan điểm cao trong lịch sử của những sự rối loạn cảm xúc; một phong trào đánh mất trong phong trào cải cách ngành công nghiệp theo sau.36
Bởi vì những sự tiến bộ này trong những kỹ thuật chữa trị, hầu như những sự rối loạn tâm thần được đối xử ngày hôm nay bởi các chuyên gia, nhưng những nguyên tắc của sự điều trị đạo đức có thể vẫn có ích. Cộng đồng, và đặc biệt là Nhà thờ, có thể cung cấp liên tục sự ủng hộ, sự ấm áp, sự chấp nhận, chăm sóc, và sự tiếp xúc với thực tế – các chuyên gia bận rộn thường có thời gian giới hạn để mang lại những điều này cho bệnh nhân. Đôi khi Mục sư hoặc nhà lãnh đạo Nhà thờ khác có thể giúp người bị bệnh tâm thần có sự giúp đỡ chuyên nghiệp, và Nhà thờ thường trở nên là nguồn ủng hộ lớn nhất đối với gia đình của người bệnh tâm thần.37
Giúp đỡ Các Gia đình. Cuộc sống có thể rất khó khăn cho những người phải sống với người thất vọng sâu, tự sát, có chiều hướng tỏ ra bạo lực, hoặc tàn tật não nghiêm trọng. Các thành viên gia đình thường là những người đem lại sự quan tâm chăm sóc cơ bản đối với người bệnh tâm thần, nhưng điều này tiêu tốn thời gian, năng lực, khả năng chịu đựng nhiều căng thẳng về cảm xúc, và thỉnh thoảng tiêu hao nhiều nguồn tài chánh của gia đình. Những hoạt động và những quan tâm đôi lúc vui và những lề thói hàng ngày sử dụng như thói quen hoặc không làm gián đoạn – có thể được thay đổi một cách sinh động. Những lối sống và những mục tiêu cá nhân được thay đổi. Sự tụ họp gia đình là thường quá rối loạn đến nỗi một nổ lực có ý thức được đòi hỏi nếu như gia đình vẫn giữ cảm giác hiệp nhất. Nhiều người gặp khó khăn để giữ các nhu cầu nhạy bén của người bệnh với sự không có khả năng, và để giữ các nhu cầu và những mục tiêu của các thành viên gia đình khác.38 Các gia đình này có thể được giúp đỡ như thế nào?
(a) Ủng Hộ. Các nhóm ủng hộ khác nhau tồn tại hầu mang lại sự hướng dẫn và sự khích lệ đối với các gia đình của người bệnh tâm thần. Các nhóm này được hình thành thường với những người khác – có một thành viên gia đình bệnh tâm thần, có những cái tên như là Các Gia đình Tụ họp cho Sức khỏe Tâm thần (Families Together for Mental Health), Nhóm Ủng hộ Sức khỏe Tâm thần ở Hạt (County Mental Health Support Group), Những Người Thân và Bạn bè của Người Tàn tật Não (Relatives and Friends of the Mentally Disabled), Các Gia đình của những Người Lớn bị bệnh Tâm thần (Families of Adult Mentally Ill), Nhóm Ủng hộ Bệnh Tâm thần Phân Liệt (Schizophrenia Support Group). Thỉnh thoảng chúng được liệt kê trong cuốn sổ điện thoại; sự tồn tại của chúng thường hơn có thể được truy nguyên qua các bệnh xá sức khỏe tâm thần cộng đồng hoặc những chuyên gia tư vấn tư.39
Sự ủng hộ gia đình và các nhóm ủng hộ có thể giúp các thành viên gia đình thấy được những người khác hiểu được những căng thẳng của việc sống với một người làm phiền nghiêm trọng. Các nhóm giúp đỡ những người tham dự giải quyết sự giận dữ, lầm lỗi, tự-khiển trách bản thân, và cảm giác ô danh là quá phổ biến. Các nhóm này thường giúp các gia đình học tập điều khiển và sống như thế nào với những người thân có thể thể hiện những thái độ và cách cư xử kỳ quặc, những hành động hay gay gổ và phản-xã hội khác, vẻ bề ngoài cẩu thả và vệ sinh kém, sự rút lui và sự cách ly khỏi Xã hội, những xu thế tự-hủy phá, và thỉnh thoảng những đòi hỏi thường xuyên và thiếu/không thực tế. Nhiều lãnh vực rối loạn nhiều hơn của những sự rối loạn tâm thần bây giờ có thể được kiểm soát bởi các loại thuốc, nhưng các loại thuốc này thường phải được các thành viên gia đình chấp nhận; các thành viên gia đình cảm thấy thiếu đảm bảo về trách nhiệm này. Khi một bệnh nhân tâm thần về nhà sau một giai đoạn nằm viện, gia đình có thể cần sự ủng hộ đặc biệt xuyên suốt giai đoạn khởi đầu của sự điều chỉnh lần nữa.40
Loại ủng hộ này không nên đến từ Nhà thờ chăng? Dĩ nhiên, câu trả lời là vâng (yes); nhưng trong nhiều Nhà thờ, các thành viên có ít hoặc không hiểu về những sự rối loạn tâm thần và một số người có thể hiểu về những sức ép mà các thành viên gia đình đối đầu. Ấy thế mà thân thể địa phương của các tín hữu phải là trung tâm của sự chăm sóc ủng hộ đối với những người có các thành viên gia đình thiếu/không có khả năng về tâm thần.
(b) Giáo Dục. Cho tới khi một sự rối loạn tâm thần xuất hiện, nhiều thành viên gia đình không có sự hiểu biết về tâm lý-tâm thần học. Vì thế, giáo dục trở nên là quan trọng. Các thành viên gia đình cần hiểu về tính chất và sự điều trị cho căn bệnh tâm thần, nhưng họ cũng cần sự giáo dục phải nên đối đầu với người làm phiền ấy ra sao, mang lại sự chăm sóc như thế nào, và để giữ cuộc sống cá nhân của họ ra sao để khỏi phải chịu đựng thành viên gia đình làm phiền ấy.
Nếu như họ có thể đối đầu thành công, các thành viên gia đình cần liên can chính họ đến các hoạt động, những thói quen và những sự quan tâm hài hòa cách riêng tư; nhưng không có điều gì để làm đối với căn bệnh tâm thần. Sự liên quan tại Nhà thờ; sử dụng thời gian với bạn bè; tìm kiếm công việc có ý nghĩa; theo đuổi các mục tiêu về giáo dục hoặc các mục tiêu khác; cam kết với sự luyện tập vật lý; nên tránh bớt các bữa ăn trưa định kỳ, hoặc một kỳ nghỉ nhỏ hoặc ngắn có thể chữa lành đối với các thành viên gia đình. Không có các trò tiêu khiển như thế, cuộc sống có thể ở ngoài sự cân bằng, và các thành viên gia đình trở nên khô hạn và cạn kiệt.
Sự tránh bớt có thể là khó khăn nếu như một người tàn tật cần sự chăm sóc liên tục, nếu như thành viên gia đình cảm thấy có lỗi về việc bỏ đi, nếu như người bệnh tâm thần kích thích lầm lỗi này, hoặc nếu như không có ai có thể nhận những nhiệm vụ đem lại sự chăm sóc tạm thời. Một lần nữa, Nhà thờ có thể mang lại sự ủng hộ thực tế đối với một gia đình đang bị tổn thương, và người tư vấn thỉnh thoảng có thể kích thích sự quan tâm của Nhà thờ.41
(c) Tư vấn. Thỉnh thoảng sự ủng hộ và giáo dục không đủ. Các thành viên gia đình cần sự giúp đỡ cụ thể hơn trong sự đối đầu với những cảm giác cá nhân của họ về sự không có hiệu quả, lầm lỗi, lo lắng, và sự thiếu/không đảm bảo. Từ lúc sự cạn kiệt có thể là quá đầy tràn, các thành viên gia đình chính họ có thể bắt đầu thể hiện những triệu chứng của sự làm phiền cảm xúc, và dần dần điều này có thể hướng tới sự tái phát nơi người bệnh tâm thần, đặc biệt là khi các thành viên gia đình chỉ trích, căm hận, hoặc thiếu kiên nhẫn.
Ngược lại, sự tư vấn gia đình có thể làm sự căng thẳng giảm bớt, mang lại sự khích lệ, làm tăng sự khoan dung, cho phép thể hiện những cảm xúc, giải quyết những mâu thuẫn tại nhà, và dạy dỗ các thành viên gia đình chăm sóc bệnh nhân như thế nào. Trong một nghiên cứu về bệnh tâm thần phân liệt, các cuộc gặp gỡ gia đình trong năm đầu tiên sau khi nằm viện làm giảm sự tái phát gấp sáu lần. Các cuộc gặp gỡ này có hiệu quả nhất khi họ được chăm sóc tại nhà, tốt hơn là tại bệnh xá hoặc tại văn phòng của người tư vấn.42 Những cuộc gặp gỡ như thế mang lại cơ hội cho các gia đình thấy được sức lực của họ, hỏi các câu hỏi, học tập về các nguồn từ cộng đồng, phân loại các mục tiêu, nhận biết những giới hạn của họ, và học tập những phương cách thực tiễn để tránh bớt sự gãy đổ mà không cảm thấy có lỗi hoặc lẫn tránh những trách nhiệm gia đình.43
Tư vấn và Tự sát. “Bệnh dịch” có thể là một từ bị lạm dụng nhưng nó đã được sử dụng thường xuyên và gia tăng để miêu tả sự gia tăng các tỉ lệ tự sát, đặc biệt là trong suốt ba thập niên qua. Tự sát và những cố gắng tự sát ngày càng gia tăng trong vòng những trẻ em,44 các tù nhân,45 người lớn tuổi,46 những người lớn còn trẻ tuổi,47 và đặc biệt trong vòng những thiếu niên.48 Vấn đề không giới hạn đối với các bệnh nhên tâm thần hoặc đối với những người không tin Chúa. Tự sát đã trở nên phổ biến nhanh chóng trong vòng các tín hữu, gồm cả những người truyền giảng.
Trong chương nói về sự thất vọng,50 chúng ta đã liệt kê ra một số mấu chốt được thấy nơi những người ngẫm nghĩ về sự tự sát. Những người này thường tràn ngập những cảm giác vô vọng và nhiều người thấy không có cơ hội nào hơn để giải quyết các vấn đề của họ. Tự sát có thể có vẻ giống như cách tốt nhất để thoát khỏi một tình huống chịu đựng căng thẳng,51 và một số người quá giải phóng khi cuối cùng họ quyết định phương án này mà họ có thể che đậy những dự định của họ với những nụ cười và những sự thể hiện vui vẻ giả tạo.52 Tuy nhiên, thường hơn là những mấu chốt trước êm nhẹ khi tự sát chỉ ra sự kêu cứu giúp đỡ.
Khi một người được tư vấn đưa ra những dấu hiệu của việc suy nghĩ muốn tự sát, thích hợp để hỏi một cách nhẹ nhàng nếu như điều này đang được cân nhắc. Thỉnh thoảng những người được tư vấn được giải thoát để có đề tài và có thể được thảo luận một cách cởi mở. Trong công việc nhập liệu, cố gắng quyết định nếu như người đó đã cân nhắc một phương pháp, đã lựa chọn một phương tiện dường như làm chết người (những khẩu súng làm chết người nhiều hơn là những lọ thuốc aspirin – thuốc dùng giảm đau và giảm sốt), đã cố gắng tự sát trước đó, và có một lịch sử các vấn đề nghiêm trọng hoặc sự làm phiền tâm thần. Tất cả những điều này đều làm tăng sự có khả năng muốn tự sát.
Cố gắng nhập liệu điều đã mang lại cho người được tư vấn quan điểm này của khủng hoảng.
Những giải pháp nào đã được nổ lực và thất bại để giải quyết điều này và những khủng hoảng tương tự trong quá khứ? Điều gì có thể được cố gắng trong tương lai? Khi bạn nói chuyện với người được tư vấn, thách thức những ý tưởng lãng mạn về cái chết. Chẳng hạn, những thiếu niên thỉnh thoảng suy nghĩ về bạn bè sẽ làm họ đau đớn mãi mãi và nói về những chất lượng tuyệt vời và bi thảm của nạn nhân. Chỉ ra rằng điều này không thể xảy ra, những người khác sẽ tiếp tục với cuộc sống của họ, và sự tự sát là một giải pháp lâu bền đối với điều có thể là một vấn đề tạm thời. Cố gắng thể hiện sự tôn trọng đối với người đó, không xấu hổ hoặc xem thường, tránh những sự tranh luận nếu như có thể, và để người đó biết rằng bạn chăm sóc họ. Trong tất cả những điều trên, hãy nhớ rằng tầm quan trọng là sự cầu nguyện, cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn sự khôn ngoan và sự nhạy bén.
Sự chăm sóc và sự quan tâm của bạn thường sẽ giúp tháo ngòi nổ ý tưởng tự sát, ít nhất là tạm thời; nhưng nếu như người đó vẫn giữ sự quyết định của họ, hãy cố gắng tiếp xúc với bác sĩ gia đình, một người thân gần gũi, một trung tâm ngăn chặn sự tự sát, hoặc một người tư vấn có sự huấn luyện đặc biệt trong việc giải quyết với những tình huống khẩn cấp tự sát.
Bạn làm gì nếu như có người nào đó muốn tự sát?
Những người tư vấn và các gia đình thường cảm thấy có lỗi, giận dữ, và tự-định tội bản thân bởi vì sự tự sát đã không được ngăn chặn. Đôi khi người tư vấn có thể liên quan tới việc giúp đỡ những người sống sót, nhiều người trong họ thể hiện sự sầu khổ trộn với sự hối hận. Thỉnh thoảng sự tự sát hiếm khi được đề cập cũng như bởi những người sống sót hoặc bởi những người thân, bạn bè, và các thành viên Nhà thờ là những người muốn thể hiện sự cảm thông đối với gia đình; nhưng không chắc chắn rằng nếu như họ nên đề cập nguyên nhân của cái chết. Như bất kỳ vấn đề nào khác, nỗi đau tự sát tốt nhất nên được thảo luận một cách thành thật và đầy lòng thương xót, mà không có những nổ lực tránh né nỗi đau mà những người sống sót cảm thấy.53
Đối với những người sống sót, tự sát là một kinh nghiệm đau đớn sâu sắc và tổn thương nhiều. Sống một cuộc đời, gồm cuộc sống cá nhân của người nào đó, là tội lỗi; nhưng không phải là tội lỗi không thể tha thứ được. Bạn bè gần gũi và các thành viên gia đình có thể chỉ trích chính họ vì không ngăn chặn được cái chết của người thân yêu, nhưng cuối cùng trách nhiệm đối với sự tự sát nghỉ ngơi với nạn nhân là người không thể hoặc không vui lòng đối đầu với những sức ép của cuộc sống. Những tư vấn Cơ Đốc và những người thờ phượng cùng với chúng ta trong Nhà thờ cần thể hiện lòng trắc ẩn và sự nhạy bén trong hoàn cảnh tiếp theo và là hậu quả của sự tự sát. Chúng ta phải quan tâm chăm sóc không phải để tán dương, ít nhất điều này mang lại lý do cho những người khác bắt chước ví dụ của nạn nhân.
SỰ NGĂN CHẶN NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Một vài tháng sau khi anh bị bắt vì đã cố gắng giết tổng thống, John Hinkley trẻ tuổi đã cố gắng giết chính mình. Không phải chỉ anh cố gắng, nhưng người này gần như đã thành công. Một lần nữa, gia đình anh đã phải đối diện với sự không đảm bảo, đợi chờ lâu, bối rối, và các câu hỏi “tại sao?”. Lại một lần nữa, gia đình đã phải đối diện với nỗi đau của căn bệnh tâm thần và những cuộc tiếp chuyện lâu về điều này có thể đã được ngăn chặn như thế nào.
Sự ngăn chặn căn bệnh tâm thần và sự tự sát đã trở thành một đề tài về tầm quan trọng đang gia tăng trong suốt một vài năm qua.54 Những nổ lực thường tập trung vào sự chữa trị vật lý, giáo dục, giúp đỡ những người trong cộng đồng có các vấn đề tiềm ẩn, và mang lại sự ủng hộ và sự hướng dẫn đặc biệt đối với các nhóm có mạo hiểm-cao như con cái ở tuổi người lớn nghiện rượu hoặc con cái bỏ nhà ra đi. Những đường dây nóng trong cộng đồng, các nhóm ủng hộ, và các trung tâm ngăn chặn sự tự sát đã được thành lập khắp thế giới; nhưng hiệu năng của những nổ lực này vẫn không đảm bảo.55 Thật là khó để thúc đẩy người ta liên quan đến việc ngăn chặn một vấn đề chưa xảy ra, và những ảnh hưởng của sự ngăn chặn hầu như là không thể đo lường.
Một sự thảo luận tóm gọn về sự ngăn chặn đã được đưa ra bởi nhà tâm lý học George Albee:
Hầu hết những bệnh dịch lớn đều có yếu tố con người chịu đựng qua nhiều thế kỷ, đều đã được đánh giá bởi sự ngăn chặn hiệu quả cơ bản – làm việc với các nhóm lớn gồm nhiều người chưa chịu đựng căn bệnh nhằm để đánh giá các nguồn của sự nhiễm trùng hoặc sự lây nhiễm và để thành lập sự kháng cự lại căn bệnh. . . .
Trong trường hợp những sự rối loạn tâm thần, những yếu tố chính không phải là vi khuẩn, những con vi-rút hoặc những nhân tố hữu cơ độc hại khác; nhưng một mức độ cao của sự căng thẳng trong quá khứ hay ở hiện tại đều có thể được gây ra bởi nhiều thứ, gồm các vấn đề nghiêm trọng trong hôn nhân; sự thất nghiệp vô tình; sự hoang mang và lầm lỗi về tình dục; hoặc một lịch sử trong thời thơ ấu của sự ngờ nghệch nghiêm trọng, sự lạm dụng vật lý, sự khai thác tình dục và sự thiếu tình cảm.
Để làm giảm tình trạng những sự rối loạn tâm thần qua sự ngăn chặn, chúng ta phải làm giảm các vấn đề trong ba lãnh vực – những yếu tố hữu cơ, căng thẳng và sự khai thác các loại khác nhau – và các nguồn đang gia tăng trong ba lãnh vực khác – đối diện với những kỹ năng, sự tự-đánh giá bản thân và các nhóm ủng hộ. Để mang lại chỉ một số trong nhiều ví dụ có thể trong mỗi lãnh vực, chúng ta có thể: làm giảm các vấn đề hữu cơ bằng cách cải thiện chất dinh dưỡng trong suốt thời kỳ mang thai và bởi sự làm giảm này hướng vào trong môi trường; làm giảm căng thẳng với công việc được đảm bảo, chăm sóc và nhà cửa tốt hơn đối với những người già; làm giảm sự lạm dụng trẻ em và sự khai thác phụ nữ và những người thuộc các dân tộc thiểu số; cải thiện sự cạnh tranh với việc huấn luyện sự quyết đoán và những khóa học chuẩn bị cho cuộc hôn nhân; làm tăng sự tự-đánh giá bản thân qua những sự mô tả hay thể hiện mạnh công bằng hơn của những người có tuổi, những người tàn tật, phụ nữ và các dân tộc thiểu số; và cuối cùng, và có lẽ hầu như là quan trọng, khích lệ sự phát triển xa hơn của các phong trào tự-giúp và các nhóm ủng hộ như là các chương trình chăm sóc sức khỏe tại nhà, những bữa ăn trên xe lăn tay (Meals on Wheels), các trung tâm chăm sóc ban ngày và các chương trình Anh/Chị Lớn (Big Brother/Big Sister programs). . . .
Cuộc nghiên cứu đã làm cho điều này trở nên rõ ràng, nhiều người có được sự ủng hộ từ các tổ chức như thế giúp cảm xúc của họ tốt nhiều hơn những người đối diện với các vấn đề của họ một mình.56
Đây là sự đề suất sáng tạo, một đề suất liên quan đến sự can thiệp vào tất cả mọi mức độ của Xã hội; nhưng một chương trình hướng tới những năng lực tiềm tàng, các nguồn, và thời gian sẵn sàng đối với hầu hết những nhà tư vấn. Ngay cả khi ông phát biểu công khai nhằm ủng hộ “sự ngăn chặn qua sự thay đổi Xã hội,” Albee kết luận rằng, đây là “một sự ngã ngũ nhưng là niềm hy vọng tồn đọng.”57
Không một người nào, một trung tâm tư vấn, cộng đồng hoặc Hội Thánh có thể làm mọi thứ; nhưng mỗi chúng ta có thể tạo nên một lãnh vực nào đó của nhu cầu và làm việc nhằm ngăn chặn các vấn đề khỏi trở nên tồi tệ hơn. Một số người sẽ làm việc trong các chương trình ngăn chặn ma túy hoặc trong các trung tâm ngăn chặn sự tự sát. Những người khác sẽ tập trung vào việc làm phong phú cho cuộc hôn nhân, tư vấn trước khi nghỉ hưu hoặc sự phục hồi cuộc ly hôn. Một số người sẽ kích thích sự phát triển của các nhóm ủng hộ nhằm giúp những người sống sót sau khi tự sát, các bậc cha mẹ của những đứa con bị tàn tật, những em thiếu niên mang thai không kết hôn, con cái của những người nghiện rượu, hoặc những người khác có thể phát triển những sự rối loạn cảm xúc nghiêm trọng hơn.
Hội Thánh có một vai trò quan trọng góp phần vào nổ lực này. Chúa Jêsus đã thể hiện sự cảm thông, thương xót, sự quan tâm, chăm sóc, và sự quan tâm-xã hội, ngay cả khi Ngài rao giảng Phúc-âm và kêu gọi mọi người ăn năn. Chúng ta cũng có thể tìm những phương cách để làm trọn Đại Mạng Lệnh trong khi chúng ta cũng đang chăm sóc những người thiếu thốn, gồm cả những bệnh nhân tâm thần và những người đặc biệt dễ mắc bệnh tâm thần chăng?
CÁC KẾT LUẬN VỀ NHỮNG SỰ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Trong giữa những năm 1960, các nhà chức trách liên bang và các nhà chuyên gia về sức khỏe tâm thần đã bắt đầu một chương trình đầy tham vọng nhằm hủy bỏ từng bước các bệnh viện tâm thần lớn và chuyển những bệnh nhân tâm thần vào các trung tâm điều trị cộng đồng tiện ích và có nhân tính hơn. Đây là một ý tưởng sáng tạo nhưng có vẻ như sẽ gặp thất bại. Các bệnh viện được dãn dân, nhưng lại không đủ nhà cửa, chăm sóc chỉ tạm thời trong thời kỳ đang có biến đổi, và huấn luyện công việc để có thể hòa nhập các bậc cha mẹ vào trong Xã hội. Như là một kết quả nghiên cứu, đã có vô số các bệnh nhân tâm thần tràn ngập trên các đường phố, và chúng ta phải tạo ra một tầng lớp mới cho những người thiếu thốn: người vô gia cư bị bệnh tâm thần.
Tuy nhiên, có nguyên nhân đối với niềm hy vọng. Mặc dầu sự phổ biến về những sự rối loạn tâm thần và những tiện nghi điều trị bị giới hạn, nhưng vẫn có nhiều người thật sự tốt hơn. Trong cuối những năm 1950, các nhà nghiên cứu đã tuyển chọn một mẫu trong những bệnh nhân bệnh mãn tính nhất (giai đoạn ba-thấp nhất) tại Bệnh viện Tiểu bang Vermont và chỉ định cho họ một chương trình phục hồi. Cuối cùng, tất cả đều được hòa nhập vào trong cộng đồng. Hơn 30 năm sau đó,68% trong 168 những bệnh nhân cũ vẫn còn sống, phát hiện ra họ vẫn có chức năng phù hợp và không có dấu hiệu nào về những rối loạn tâm thần. Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng “đối lập với sự sa sút được dự tính và tình trạng trở nên xấu đi đối với bệnh tâm thần phân liệt hoặc đối với căn bệnh nghiêm trọng nào khác, và những sự rối loạn tâm thần kinh niên, các triệu chứng có thể được cải thiện tốt hơn qua thời gian và chức năng có thể được hồi phục.”59
Có lần Chúa Jêsus đã nói trước rằng: người nghèo sẽ luôn luôn ở với chúng ta. Có lẽ điều này có thể cũng được nói cho những người có những sự rối loạn tâm thần. Tuy nhiên, dường như chỉ có Phúc Âm có thể đến gần với người nghèo (cũng như người giàu), vì thế Lời của Đức Chúa Trời có thể đem lại sự khuây khỏa và sự hướng dẫn cho những người bệnh tâm thần và cho cả những người lành mạnh hơn. Việc giúp đỡ những người bệnh tâm thần và các gia đình của họ là một trong những thách thức lớn nhất đối với người tư vấn Cơ Đốc.
Christian Counseling- Gary R]. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Bennett, George. When the Mental Patient Comes Home. Philadelphia: Westminster,1980.*
Blackburn, Bill. What You Should Know about Suicide. Waco, Tex.: Word,1982.*
Hatfield, Agnes B., and Harriet P. Lefley, eds. Families of the Mentally Ill: Coping and Adaptation. New York: Guilford,1987.
Maxmen, Jerrold S. Essential Psychopathology. New York: Norton,1986.
Torrey, E. Fuller. Surviving Schizophrenia: A Family Manual. New York: Harper & Row,1983.*
Wolman, Benjamin B., ed. The Therapist’s Handbook: Treatment Methods of Mental Disorders. 2d ed. New York: Van Nostrand Reinhold,1983.