Phương Pháp Tâm Vấn Cơ Đốc
Gần đây vị mục sư của một hội thánh lớn phải đương đầu vơi một trường hợp bi thảm khi người đặc trách ca đoàn treo cổ tự vẫn. Cô đang ở độ tuổi ba mươi, có gia đình và chồng là một chấp sự trong hội thánh. Cô cũng là một giáo viên trường Chúa nhật được học viên yêu mến. Mọi người kính trọng và quí mến vì cô sống dấn thân và có đức tin trưởng thành trong Chúa. Cái chết bất ngờ của cô là một cú sốc khiến mọi người trong hội thánh bàng hoàng.
Giả như việc này xảy ra trong hội thánh, là mục sư bạn sẽ nói gì với với hội chúng? Bạn sẽ giúp đỡ người chồng như thế nào? Bạn sẽ làm gì nếu có một thanh niên cũng có ý định tự tử đến với bạn?
Những câu hỏi nay dẫn chúng ta đến đề tài nói về các phương pháp tâm vấn. Trong chương sau, chúng ta sẽ bàn về vấn đề tự tử, nhưng ở chương này, chúng ta sẽ xem thử nhà tâm vấn phải nói gì khi có người đến xin giúp đỡ.
Nếu có thể đọc các sách vở viết về đề tài này bạn sẽ thấy có hàng nghìn phương pháp khác nhau. Tuy nhiên bạn không cần phải biết tất cả những phương pháp đó rồi sau mới có thể giúp người khác được! Một số những phương pháp căn bản và hữu hiệu nhất có trong Kinh Thánh. Chúng ta khởi sự với một thí dụ trong Cựu ước rồi sang Tân ước xem Chúa Giê-xu tư vấn như thế nào.
Thí Dụ về Gióp
Sách Gióp mô tả những tranh chiến của một người phải đối diện với nhiều nan đề cá nhân. Ngay trong câu đầu, Gióp được mô tả là một người hoàn toàn, một người công chính, kính sợ Chúa và lánh xa điều ác. Ông cũng là một người giàu có, đông con cái, là một người danh giá và được tôn kính.
Nhưng rồi một loạt tai họa liên tiếp đổ xuống đời Gióp. Ông mất tất cả tài sản, con cháu chết hết trong cơn bão. Hai vợ chồng lục đục và ông mất cả sức khoẻ lẫn địa vị. Nếu trong những hoàn cảnh đó Gióp xuống tinh thần, giận dữ, tra hỏi về những lý do phải chịu thống khổ thì đó có phải là điều đáng ngạc nhiên không?
Lúc đó có ba nhà tâm vấn đến giúp Gióp nhưng không thành công. Một người thứ tư tên là Ê-li-hu xuất hiện (Giop 23:1-17). Anh do dự không dám nói vì thấy mình nhỏ tuổi hơn những người kia, nhưng cuối cùng anh cũng lên tiếng. Ê-li-hu đã giúp được gì?
Ê-li-hu lắng nghe (Giop 32:11). Nghe là một trong những kỹ thuật tâm vấn quan trọng nhất nhưng thường bị quên lãng.
Các nhà tâm vấn đôi khi nghĩ rằng mình phải đưa ra những lời khuyên uyên bác, trưng dẫn Kinh Thánh, hay đặt những câu hỏi cao siêu. Tuy nhiên những điều này có thể cản trở tiến trình tâm vấn, nhất là khi sử dụng ngay từ đầu khi chúng ta chưa biết rõ hay nắm chắc nan đề của người cần được tâm vấn.
Nhà thần học người Đức Dietrich Bonhoeffer có lần viết rằng nhiều người đang tìm “tai biết lắng nghe.” Thông thường người ta không tìm thấy trong vòng Cơ-đốc nhân vì khuynh hướng chung là quá muốn nói hơn muốn nghe. Ông gợi ý rằng “Người không thể kiên nhẫn lắng nghe chắc chắn sẽ nói chuyện ngoài lề.” Những người như thế không giúp được nhiều.
Khi chúng ta lắng nghe, như Ê-li-hu nghe Gióp, người được tâm vấn có cơ hội diễn đạt xúc cảm của mình. Điều này thường giúp đương sự cảm thấy khá hơn và đôi khi cũng nhờ đó có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin giá trị giúp ích cho tiến trình tâm vấn.
Cẩn thận lắng nghe đòi hỏi phải tập trung chú ý. Chúng ta dễ lơ đãng trong lúc người được tâm vấn thổ lộ tâm sự. Đúng ra chúng ta phải nghe thật cẩn thận nhưng không được biểu lộ thái độ kinh ngạc. Một nụ cười, thỉnh thoảng gật đầu, hay hỏi một câu thông thường như, “Rồi sau đó ra sao?” hay “Anh/chị cảm thấy thế nào về việc đó?” có thể giúp đối tượng tiếp tục kể lại nan đề của mình một cách tự nhiên.
Ê-li-hu hiểu (Giop 32:12). Trước khi gặp Ê-li-hu chắc hẳn Gióp rất bực dọc khi nói về những nan đề của mình vì dường như không có ai chịu hiểu cho ông. Tuy nhiên, với Ê-li-hu, sự việc đã thay đổi. Ê-li-hu hiểu rằng chưa ai thực sự trả lời được những vấn nạn của Gióp.
Một câu châm ngôn cổ của người da đỏ bảo rằng bạn không thể thực sự hiểu một người nếu bạn chưa đi một dặm đường bằng đôi giày của anh ta. Nếu bạn thực sự muốn hiểu người khác, cố tưởng tượng xem vấn đề đó trong cái nhìn của anh ta sẽ như thế nào. Cố thử tưởng tượng xem bạn sẽ tâm vấn thế nào cho viên chấp sự có người vợ tự sát. Để thực sự hiểu một người, bạn cần tự hỏi, “Tôi sẽ cảm thấy thế nào nếu người bạn đời của tôi tự tử?” Khi cố nhìn nan đề trong quan điểm của người được tư vấn, lúc bấy giờ bạn mới khởi sự hiểu. Đây là một phần quan trọng của tiến trình giúp đỡ.
Ê-li-hu trấn an (Giop 33:6-7). Ê-li-hu bảo, “Tôi cũng như ông. Tôi là người và cũng có nhiều nan đề. Tôi không đến làm ông sợ.”
Nhiều người do dự không dám thổ lộ nan đề cho nhà tâm vấn. Họ xấu hổ vì mình có chuyện buồn và cũng xấu hổ vì không thể tự giải quyết mà phải nhờ giúp đỡ. Nếu có lỗi hay phạm tội, đương sự có thể sợ bị nhà tâm vấn giận, chỉ trích hay phê phán. Vì thế, điều quan trọng là nên trấn an người cần tâm vấn rằng dù có nan đề hay phạm tội người đó vẫn được yêu quí và chấp nhận. Nhớ rằng Chúa Giê-xu đến trần gian vì yêu chúng ta dù tất cả chúng ta đều là tội nhân (Ro 5:8).
Ê-li-hu nói thẳng (Giop 33:12). Nói thẳng là chỉ ra những lỗi phạm, thất bại, hiểu lầm hay những thái độ tai hại của người cần tâm vấn. Trách nhiệm của nhà tâm vấn không phải là phán xét, lên án, hay gieo mặc cảm phạm tội, nhưng là chỉ ra những điều người cần tâm vấn không thấy hay không muốn thấy.
Có một bà đến với nhà tâm vấn than cô đơn bảo rằng không có ai gần, cũng không có ai muốn đến với bà. Nhà tâm vấn nhanh chóng tìm ra lý do không khó khăn gì: bà nói quá nhiều, nói liên tục về mình và về mọi nan đề riêng cho nên ai cũng chán và tìm cách xa lánh. Nhà tâm vấn ôn tồn nói thẳng với bà sự kiện trên và cho biết thái độ chỉ nghĩ đến mình và nói chuyện riêng của mình nhiều quá làm cho người khác chán không muốn đến gần. Bà này mới đầu không muốn nghe nhưng rồi cũng thay đổi và chỉ ít lâu sau, bà có thêm bạn bè rất đông, không còn thấy cô đơn nữa!
Khi nói thẳng với ai, bạn nên nói nhẹ nhàng, ôn tồn, chỉ ra những sự kiện bạn thấy rồi để cho người được tâm vấn có thì giờ trả lời. Ê-li-hu đã làm điều này, nói với Gióp rằng, “Lối suy nghĩ của ông không đúng. Ông quên rằng Đức Chúa Trời lớn hơn loài người. Thái độ của ông khiến cho ông gặp khó khăn.” Ê-li-hu không giảng nhưng nêu các sự kiện, rồi bảo Gióp trả lời những sự kiện đó (33:32). Ê-li-hu đàm luận với Gióp và cho Gióp cơ hội trả lời.
Ê-li-hu dạy (Giop 33:33). Đôi khi đây là phần quan trọng của tiến trình tâm vấn – chia xẻ những chân lý người được tâm vấn cần nghe.
Có nhiều cách dạy. Đôi khi chúng ta cung cấp các thông tin lúc trò chuyện. Có khi chúng ta đề nghị những điều người được tâm vấn cần thay đổi và thông thường chúng ta dạy bằng gương mẫu của chúng ta.
Có bao giờ bạn thấy gương mẫu của bạn có thể là một trong những phương cách mạnh mẽ nhất để dạy người khác không? Phao-lô biết tín hữu nhìn ông như một mẫu mực nên ông bảo họ, “hãy bắt chước tôi cũng như chính mình tôi bắt chước Chúa Cứu Thế vậy” (ICo 11:1). Là nhà tâm vấn, bạn cần ý thức rằng hành động của bạn cũng có tác dụng mạnh mẽ như những gì bạn nói.
Điều này đưa chúng ta đến phương pháp tâm vấn cuối cùng của Ê-li-hu.
Ê-li-hu chỉ hướng Gióp về Đức Chúa Trời. Khởi đầu từ chương 34, Ê-li-hu trình bày về Đức Chúa Trời và kêu gọi Gióp vâng lời Ngài. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý rằng việc này chỉ thực hiện vào giai đoạn cuối, sau khi Ê-li-hu đã lắng nghe và củng cố được tình bạn với Gióp.
Trong chương 1 chúng ta đã nói về đại mạng lệnh (Mat 28:18-20) và xác định rằng đào tạo môn đệ là mục tiêu của mọi Cơ-đốc nhân, bao gồm cả những nhà tâm vấn Cơ-đốc. Chúng ta cần tôn trọng những người cần tâm vấn và đừng áp đặt tin lành cho họ; tuy nhiên, chúng ta cũng phải hướng về việc nói cho họ biết về Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Kinh Thánh mô tả là “Nhà TâmVấn Lạ Lùng” (Đấng Mưu Luận Lạ Lùng – Es 9:6). Ngài là Đấng tối thượng ban bình an, ổn định và giải pháp cho mọi nan đề của chúng ta. Ngài cũng là Đấng có thể dạy chúng ta các phương pháp tâm vấn.
Phúc âm Lu 24:1-53 ghi lại câu chuyện quen thuộc Chúa Giê-xu đàm luận với hai môn đồ trên đường về Em-ma-út. Hôm đó là vào ngày đầu Phục sinh. Chúa Giê-xu mới từ kẻ chết sống lại, nhưng hai khách bộ hành kia hoang mang, bối rối về sự kiện lạ lùng xảy ra vào buổi sáng. Đang khi họ vừa đi vừa bàn luận, Chúa Giê-xu tiến đến cùng đi và khuyên giải trong lúc họ đang mang nặng tâm trạng buồn lo. Chúng ta lưu ý những điều Chúa làm.
Chúa Giê-xu đến bên họ và cùng đi với họ (Lu 24:15). Tâm vấn có thể tiến hành ở bất cứ chỗ nào: trong văn phòng, ở nhà, bệnh viện, nhà thờ, tiệm ăn hay ngay cả ngoài đường như trong bài mẫu của Chúa Giê-xu.
Bạn có thấy việc hai người này không nhận ra Chúa Giê-xu là ai là một điều quan trọng không (24:26)? Bạn có thấy khả dĩ có đôi lần Ngài hành động qua bạn hay tôi nhưng chúng ta không luôn luôn nhận ra sự hiện diện của Ngài? Nhà tâm vấn cần đi thật gần Chúa, cần giữ mối liên lạc mật thiết với Chúa, sẵn sàng làm công cụ cho Chúa để đụng đến đời sống của những người cần giúp đỡ.
Chúa Giê-xu hỏi (Lu 24:17,19). Những nhà tâm vấn mới thường phạm vào lỗi hỏi quá nhiều. Điều này có thể khiến người được tâm vấn đi đến hai kết luận: Thứ nhất, đương sự có thể cho rằng được tâm vấn chỉ đơn giản là trả lời các câu hỏi. Thứ hai là nghĩ rằng sau khi đã hỏi hết, nhà tâm vấn sẽ chẩn đoán và đưa ra giải pháp. Điều này hiếm khi xảy ra mà trái lại, đôi khi vì quá bận nghĩ thêm câu hỏi, nhà tâm vấn đã không chú ý nghe câu trả lời của người được tâm vấn.
Để tránh lỗi này, nhà tâm vấn nên hỏi thận trọng và hỏi ít. Có hai loại câu hỏi.
Thứ nhất là những câu hỏi “đóng.” Với những câu hỏi như, “Ông tên gì?” “Ông lập gia đình chưa?” “Ông có con cái không?” “Ông có thấy buồn không?” người được tâm vấn chỉ cần trả lời rất vắn tắt.
Những “câu hỏi đóng” giúp chúng ta có những thông tin đặc biệt, nhưng không khích lệ người có nhu cầu nói thêm về nan đề của mình. Vì vậy, các nhà tâm vấn hay dùng loại câu hỏi thứ hai và đó là những câu hỏi “mở” Đối với loại câu hỏi này rất ít khi có thể trả lời vắn tắt được. Chúng kích thích người được tâm vấn dốc đổ tâm sự và cho nhà tâm vấn có cơ hội lắng nghe. Chúng ta có thể hỏi những câu như, “Anh/chị quan tâm, lo lắng đến điều gì?” Chuyện gì làm anh/chị buồn?” “Bảo rằng hôn nhân không hạnh phúc anh/chị muốn nói đến khía cạnh nào?” “Anh/chị có thể cho biết điều gì làm anh chị nản lòng không?”
Tên đường đến làng Em-ma-út, hai môn đồ hỏi Chúa Giê-xu có biết “những việc mới xảy ra không.” Chúa trả lời, “Việc gì vậy?” (Lu 24:19). Đó là một câu hỏi mở để các môn đồ nói thêm về nỗi lo lắng của họ.
Chúa Giê-xu lắng nghe. Kinh thánh không minh thị nói đến điều này, nhưng hàm ý Chúa Giê-xu nói ít trong suốt quãng đường từ Giê-ru-sa-lem.
Như chúng ta đã thấy, cẩn thận lắng nghe đòi hỏi phải tập trung chú ý. Một nhà tâm vấn giỏi có thể biết được rất nhiều khi để ý đến âm điệu của giọng nói, lúc người được tâm vấn thay đổi cao độ hay âm lượng (có thể chỉ thị tâm trạng bối rối), hay đổi đề tài câu chuyện. Khóc hay rơm rớm nước mắt, thở ra, đổi tư thế ngồi, hay thay đổi nhịp thở cũng đều có thể là những dấu chỉ cho biết đương sự đang đối phó với những vấn đề xúc cảm quan trọng. Cần luôn luôn thầm hỏi xem người được tâm vấn đang muốn truyền đạt điều gì qua điệu bộ, cử chỉ và những tín hiệu không lời trên. Lưu ý trong Lu 24:17, hai môn đồ đi về làng Em-ma-út có dáng vẻ buồn bã. Một nhà tâm vấn bén nhạy sẽ để ý đến điều này.
Đến đây, có thể bạn sẽ tự hỏi tại sao lại cần lắng nghe và quan sát kỹ lưỡng như vậy? Tại sao không hỏi thẳng xem đương sự đang có vấn đề gì rồi tìm giải pháp? Nếu đương sự biết đích xác nan đề của mình hay nếu người đó sẵn sàng và có thể diễn đạt rõ ràng được thì đó là trường hợp lý tưởng. Trong thực tế điều này không luôn luôn xảy ra cho nên nhà tâm vấn và người được tâm vấn phải cùng làm việc với nhau để có thể tìm ra nguyên nhân chính của nan đề. Khi nan đề chưa rõ ràng, nhà tâm vấn thường phải tìm ra những thông tin cần yếu bằng cách cẩn thận quan sát và lắng nghe lúc người được tâm vấn trình bày.
Có bao giờ bạn nghĩ rằng Chúa Giê-xu đâu cần phải lắng nghe mới biết không? Tất nhiên là Chúa quán thông mọi sự và Đức Chúa Trời là Cha bày tỏ cho Ngài những điều vượt quá khả năng hiểu biết của con người bình thường. Có thể Chúa đã biết mọi nỗi buồn phiền của hai môn đồ này nhưng Ngài vẫn cứ nghe, vì Ngài biết rằng việc người có nan đề phải tự nói ra rất quan trọng, quan trọng y như nhà tâm vấn phải lắng nghe vậy.
Chúa Giê-xu chấp nhận. Đây cũng là điều hàm ngụ trong phân đoạn Kinh thánh trên. Chúa Giê-xu biết họ đã có những kết luận không đúng về các sự kiện xảy ra nhưng Ngài không lên án họ. Chúa chấp họ là những người đáng quí dù họ có những ý tưởng sai lạc. Là những người tin theo Chúa Cứu Thế, chúng ta có trách nhiệm chấp nhận tội nhân, dù không thể chấp nhận hay dung dưỡng tội lỗi và những điều sai lạc.
Chúa Giê-xu nói thẳng (Lu 24:25-26). Giống như Ê-li-hu nói thẳng với Gióp, Chúa Giê-xu cũng cho hai môn đồ kia biết rằng họ đã có những kết luận dại dột. Họ không hiểu những điều Kinh Thánh đã dạy rất minh bạch và Chúa chỉ cho họ thấy những suy nghĩ sai lạc đã làm cho chính họ bối rối như thế nào.
Nói thẳng không phải là cách đáp ứng duy nhất của nhà tâm vấn. Phương pháp đáp ứng am hiểu (understanding responses) được dùng khi nhà tâm vấn muốn chuyển đạt sự đồng cảm, với tín hiệu bảo rằng mình hiểu và cảm thông. Đáp ứng dọ dẫm (probing responses) khi nhà tâm vấn cần biết thêm thông tin hay khi muốn gợi chuyện để trao đổi chi tiết hơn. Bằng cách nói lên những nhận xét có tính cách hỗ trợ (supportive comments), nhà tâm vấn cố gắng trấn an hay khích lệ người được tâm vấn. Đáp ứng diễn giải (interpretive responses) là có ý dạy cho người được tâm vấn hiểu những việc đang xảy ra, trong khi những đáp ứng đánh giá (evaluative responses) chỉ thị điều nhà tâm vấn nghĩ về sự thiện, sự công chính hay khôn ngoan của một ý tưởng hay hành động nào đó. Đáp ứng hành động (action responses) là cách nhà tâm vấn cố gắng gợi ý hay khích lệ người được tâm vấn tham dự vào một loại hành động nào đó. Bảng 3.1 nêu lên một số thí dụ cho mỗi loại đáp ứng này.
Chúa Giê-xu dạy (Lu 24:27) Các môn đồ trên đường đến làng Em-ma-út cần phải thay đổi một số suy nghĩ về những vấn đề tâm linh và Chúa đã dạy họ. Như chúng ta đã thấy, dạy cũng là một phần quan trọng trong quá trình tâm vấn.
Tuy nhiên đôi khi chúng ta thấy có những người ở trong tình trạng quá buồn lo bối rối không thể hiểu hay không thể áp dụng được những nguyên tắc thuộc linh được truyền đạt. Những người này cần được cầu nguyện, cần sự an ủi của Đức Thánh Linh, cần kinh nghiệm tình thương trong Chúa trước khi có thể khởi sự nắm được các chân lý Kinh Thánh.
Hai điểm yếu lớn nhất của các nhà tâm vấn Cơ đốc là sử dụng quá ít hoặc quá nhiều các tài nguyên thuộc linh. Có nhà tâm vấn không bao giờ cầu nguyện với người cần tâm vấn và không bao giờ trưng dẫn Kinh Thánh. Trái lại, có nhà tâm vấn lại cho rằng mỗi lần tâm vấn chỉ cần đọc một đoạn Kinh Thánh và cầu nguyện là đủ. Đôi khi chỉ như thế là đủ, nhưng cũng có nhiều trường hợp, phương cách đó hoàn toàn thất bại, đặc biệt đối với những người không thấy tình hình khá hơn hay không muốn vâng theo lời Kinh Thánh. Các nhà tâm vấn cũng cần tránh tạo ấn tượng rằng đọc Kinh Thánh hay cầu nguyện có tác dụng như bùa phép có thể bất ngờ giải quyết được vấn đề.
Không có nguyên tắc cố định bảo người được tâm vấn khi nào thì cầu nguyện hay đọc Kinh Thánh nhưng Đức thánh Linh là Đấng hướng dẫn họ. Nhiều nhà tâm vấn cơ đốc cầu nguyện trước và sau các buổi tâm vấn, đôi khi cầu nguyện vào những lúc khác. Khi thấy cần hoặc vào thời điểm thích hợp, nhà tâm vấn có thể cũng muốn đọc một phân đoạn Kinh Thánh. Bảng 3. 2 liệt kê một số các câu Kinh Thánh hữu dụng.
Cần khuyến khích người được tâm vấn giữ giờ tĩnh nguyện, đọc Kinh Thánh, suy gẫm và cầu nguyện mỗi ngày. Cũng nên đề nghị đọc một tài liệu dưỡng linh nào đó và nếu phù hợp với tập quán giáo hội, nhà tâm vấn có thể cử hành và cùng dự tiệc thánh với người được tâm vấn.
Phạm vi sử dụng các phương tiện thuộc linh như trên tùy thuộc nhà tâm vấn, tùy thuộc người được tâm vấn và cả nan đề đối phó. Nhà tâm vấn Cơ-đốc không bao giờ cầu nguyện riêng sẽ thấy rất ngại ngùng khi phải cầu nguyện trong buổi tâm vấn. Nhà tâm vấn Cơ-đốc cũng cần thông suốt và hiểu rõ Lời Đức Chúa Trời (IITi 3:15), nếu không sẽ khó thành công trong việc vận dụng Lời Chúa trong quá trình tâm vấn.
Đối với một số người được tâm vấn, cầu nguyện và đọc Kinh thánh góp phần thêm sức và nâng đỡ tinh thần. Trong khi đó, đối với một số người khác, việc này làm họ mất tự nhiên và không thoải mái. Việc thực hành các tập quán văn hoá cũng là khía cạnh nhà tâm vấn cần lưu tâm, cần suy xét thận trọng để biết khi nào nên áp dụng và áp dụng như thế nào cho phù hợp.
Tóm lại, phương tiện sử dụng trong các buổi tâm vấn tùy thuộc nan đề của người được tâm vấn. Một goá phụ đang đau buồn có thể được an ủi rất nhiều qua các phương thức tâm vấn thuộc linh, trong khi đó một sinh viên học lực kém cần được một lời cầu thay ngắn, thì giờ còn lại dành để tìm hiểu, bàn thảo liên quan đến thói quen học hành.
Trên hết, cần nhớ rằng, là một nhà tâm vấn Cơ-đốc, bạn khác với những người không tin. Thí dụ như Cơ-đốc nhân có những nhận định khác về người và về vũ trụ, tin rằng Đức Chúa Trời hằng sống, Ngài quan tâm đến từng cá nhân, chú ý đến những lời cầu nguyện của chúng ta và chịu trách nhiệm bảo tồn vũ trụ bằng quyền năng Ngài (He 1:1-3). Cơ-đốc nhân tin rằng chỉ có thể tìm được niềm vui và bình an sâu lắng nhất khi một người đặt lòng tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Trong khi đó, nhà tâm vấn Cơ-đốc được coi là công cụ, qua đó Đức Thánh Linh có thể sử dụng để đem lại sự chữa lành tâm trí.
Chúa Giê-xu dám can dự . Sau hành trình khá dài đến làng Em-ma-út, hai môn đồ mời Chúa Giê-xu nghỉ lại với họ và Chúa đã nhận lời.
Từ ngữ “dám can dự” có làm bạn ngạc nhiên không? Khi can dự vào đời sống những người cần tâm vấn đôi khi chúng ta sẽ thấy mình phải hao tổn năng lực và thì giờ. Can dự sâu xa vào đời sống những ngưới có nhu cầu không phải việc dễ dàng, vì rất có thể sẽ bị lôi cuốn vào những hoàn cảnh khó xử, nhưng Chúa Giê-xu sẵn sàng chấp nhận, và lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ.
Phần ký thuật trong Kinh Thánh cho chúng ta biết cả ba cùng ngồi dùng bữa và Chúa Giê-xu bẻ bánh. Đúng lúc đó hai môn đồ nhận ra Chúa Giê-xu, rồi diễn tiếp kế tiếp là gì? Ngài biến mất! Như vậy sự việc này có phải là một phần của công tác tâm vấn không? Là người, chúng ta không thể biến mất như Chúa Giê-xu, nhưng chúng ta có thể làm điều có ý nghĩa tương tự như việc Chúa làm cho hai môn đồ kia.
Chúa Giê-xu khích lệ tinh thần tự lập (Lu 24:31). Hai môn đồ không còn phải dựa vào nhà tâm vấn nữa và họ có thể quyết định hành động theo điều họ vừa học. Tức khắc họ đứng dậy trở về Giê-ru-sa-lem, đến với các anh chị em cơ đốc nhân khác và chia xẻ với họ những gì mới xảy ra.
Cách thức Chúa Giê-xu làm tâm vấn cho những môn đồ này không phải cách duy nhất, vì Ngài từng dùng những phương pháp khác. Như đã thấy trong chương 1, Chúa Giê-xu đã giúp Ni-cơ-đem qua một cuộc đàm luận tri thức và thần học. Với phụ nữ Sa-ma-ri bên giếng, Chúa dùng dụ ngôn và luân lý. Với người phụ nữ bị bắt vì tội ngoại tình, Chúa tha thứ nhưng căn dặn không được phạm tội nữa. Với trẻ em, Chúa bày tỏ lòng thương mến dịu dàng.
Có lẽ Chúa Giê-xu đã dùng phương cách tâm vấn khác nhau với mỗi người Ngài gặp. Chúa biết mỗi người đều khác nhau, mỗi người có những đáp ứng khác nhau. Không có các qui luật hay danh sách các phương pháp tâm vấn nào cùng có thể áp dụng hữu hiệu như nhau cho mọi người hay mọi nhóm văn hóa.
Tuy nhiên, không phải vì mọi người khác nhau như thế mà chúng ta nản lòng. Nhà tâm vấn Cơ-đốc rất cần bén nhạy với từng con dân Chúa, tin cậy Đức Thánh Linh sẽ chỉ cho chúng ta biết cách đáp ứng những nhu cầu riêng biệt của người đến với chúng ta để được giúp đỡ.
Vị mục sư chúng ta đề cập ở đầu chương biết rõ điều này. Với sự giúp sức từ Chúa, ông có thể có những đáp ứng khác nhau, cho người chồng có vợ tự tử, cho hội thánh đang xôn xao vì biến cố này, và cho người thanh niên đang có tư tưởng quyên sinh.
Đức Chúa Trời cũng có thể giúp bạn trong công tác tâm vấn và hy vọng những phương pháp trình bày trong chương này sẽ giúp bạn đến với những người có nhu cầu đang sinh hoạt trong hội thánh hay trong cộng đồng của bạn.
Những Loại Câu Trả Lời Trong Buổi Tâm Vấn
Hiểu Tôi biết anh/chị thấy rất khó chấp nhận
Hay nói cách khác, anh/chị thấy…
Từ nãy đến giờ, anh/chị đã nói…
Vâng, đây là những kinh nghiệm rất buồn.
Thăm dò Xin anh/chị nói thêm về việc này
Lúc đó bà ấy phản ứng thế nào?
Rồi có chuyện gì xảy ra lúc đó?
Tôi chưa nắm vững lắm điều anh/chị vừa nói
Hỗ trợ Nhiều người cũng nghĩ như vậy
Đó chính là điều Đức Chúa Trời quan tâm
Mọi chuyện sẽ tốt hơn nếu…
Tôi tin là họ sẽ hiểu khi anh/chị…
Giải thích Sự việc lúc đó có vẻ như…
Chuyện này làm cho anh/chị cảm thấy mình có lỗi
Anh/chị quá tuỳ thuộc vào…
Có phải là anh/chị muốn nói rằng…
Đánh giá Quyết định như vậy là khôn ngoan
Đó là một ý hay
Kinh thánh coi điều đó là tội
Làm như vậy khó có kết quả
Tôi nghĩ anh/chị nên làm một việc khác
Hành động Tôi khuyên anh/chị nên…
Sao anh/chị không thử làm….
Từ nay cho đến buổi kế tiếp vào tuần tới anh/chị nên …
Bảng 3.2
Những Câu Kinh Thánh Hữu Ích Dùng Cho Công Tác Tâm Vấn
Nhu cầu hay nan đề Kinh thánh tham chiếu
Tham khảo kinh thánh
Sự lo lắng
Tức giận
An ủi; Can đảm ; Sự chết; Trầm cảm
Sự nản lòng; Sự nghi ngờ; Sự ganh tỵ
Sự tin cậy; Sự sợ hải; Tha tội; Tha thứ
Đau buồn mất mát; Hướng dẫn;Căm ghét; Cảm giác vô phương
Cô đơn; Nhu cầu; Kiên nhẫn; Bình an; Ca ngợi; Sự thử thách; Sự cứu rỗi
Đau yếu; Tội lỗi; Tăng trưởng; Sự cám dỗ; Buồn; Yếu đuối; Khôn ngoan
Thi 43:5 46:1-2,9-10 Ch 3:5-6 12:25 17:22 Mat 6:25-26,31-32,34 Phi 4:6-7,19 IPhi 5:6-7.
Thi 37:8 Ch 12:16 14:17,29 15:l,18 25:28 Eph 4:26 Co 3:8 Gia 1:19-20.
Thi 23:4 Ca 3:22-23 Mat 5:4 11:28-30 Gi 14:16,18 Ro 8:28 IICo 1:3-4 IITe 2:16-17.
Gios 1:7-9 Thi 27:3 31:24 Ch 3:26 14:26 Mat 28:20 IICo 5:6 Eph 3:11-17 Phi 4:13 IITi 1:8-9.
Thi 23:4 116:15 Gi 14:1-6 Ro 14:8 ITe 5:9-10 IITi 4:7-8 Kh 21:4.
Thi 32:3-4 34:18-21 42:11 Dan 11:14-15 IVua 19:1-5 IICo 4:8-9 Phi 4:4-7.
Gios 1:9 Thi 27:14 34:7-8,17-19 43:5 55:22 Mat 11:28-30 Gi 14:1,27 16:33 IICo 4:8-9 He 4:16
Thi 37:5 Ch 3:5-6 Mat 21:21-22 Gi 7:17 20:24-30 Gia 1:6 He 11:6.
Thi 37:1-7 Ch 3:31 23:17 Ro 13:13 ICo 13:4 ITi 6:4-5 Co 5:26
Lu 17:6 Ro 4:3 10:17 IICo 2:5,7 Eph 2:8-9 ITe 3:7-8 He 11:6,29-30 Gia 1:3.
Le 26:12 Thi 27:1,8,14 42:5 46:1 56:3 Es 43:1 51:12 Gi 14:27 Ro 8:31 IGi 4:18
Thi 32:1,5 51:1-19 Ch 28:13 Es 1:18 55:7 IGi 1:9 Co 1:13-14 Gia 5:15-16.
Mat 5:44 6:14-15 18:21-22 Mac 11:25 Lu 17:3-4 Eph 4:31-32 Ga 6:1 Co 3:13.
Thi 23:4 Mat 5:4 11:28-30 Gi 14:16,18 16:22 Phi 1:21 ITe 4:13 IITe 2:16-17 Kh 21:4.
Thi 32:8 139:23-24 Ch 3:5-6 16:9 20:18 Es 48:17 Gi 16:13 Co 3:15-17 Phi 4:6-7.
Ch 10:12,24,26 Eph 4:31-32 Ga 5:15,19-21 Gi 1:9 2:9-11.
Thi 34:5,7 5:22 91:4 Mat 11:28-30 Gi 8:32 He 4:16 13:5-6 IPhi 5:7.
Thi 27:10 56:11 62:5 Ch 18:24 Es 43:2 Gi 15:14 He 13:5 IPhi 5:7.
Thi 34:10 37:3-4 84:11 Ch 17:17 IICo 12:9 Eph 5:21 6:11 Phi 4:19 Mat 6:8.
He 10:36 Ga 1:3-4 5:7-8,11.
Thi 121:7,8 Es 26:3 Gi 14:27 16:33 Ro 5:1 Phi 4:6-7 Co 3:15 He 13:6.
Thi 34:1 50:23 107:8 139:14 He 13:15
Giop 23:10 55:22 Es 41:3 Thi 55:22 Mat 5:10-11 Ro 8:28 IICo 4:17 IITi 3:12 He 12:7,11 IPhi 2:20 Kh 3:19.
Ro 3:10,23 10:9 IGi 1:9-10 Gi 3:16 5:24 10:10 Lu 19:10 Cong 4:12 Ro 6:23 Eph 2:8-9
Thi 103:3 Ch 18:14 Es 53:4-5 Gi 11:4 Ro 8:28 IICo 12:9 Gia 5:14-15.
Thi 51:1-4,10-12 Es 53:5-6 55:7 59:1-2 Ro 3:23 10:10,13 Ga 3:22 IGi 1:9.
Mat 6:33 IITi 2:15 IIPhi 1:5-8 3:13-14
Thi 32:7 121:7-8 ICo 10:12-13 ICo 4:17 He 2:18 Gia 1:2-4,12 IIPhi 2:9
Thi 55:22 Ch 9:9 Mat 11:28-29 Gi 15:10-12 16:33 Ga 5:22 Phi 4:6-7 He 12:11
Thi 27:14 28:7 Es 40:29,31 41:10 IICo 12:9 IITi 1:7 Phi 4:13.
Thi 11:105 119:11,130 Ch 1:7 4:5-7,13 16:23 Giop 28:23 Gi 3:23 Gia 1:5 Phi 3:14.
Câu Hỏi Ôn Và Thảo Luận Chương 3: Phương Pháp Tâm Vấn Cơ Đốc
1. Những câu truyện trong Kinh thánh cho chúng ta thấy nhiều phương cách khôn ngoan khi giúp đở người khác, Ê-li-hu dùng những phương pháp tâm vấn nào trong khi giúp đỡ Gióp trong hoạn nạn?
2. Phúc âm Luca chương 24 ghi lại câu chuyện phục sinh của Chúa Giê-xu. Qua câu chuyện này chúng ta thấy Chúa sử dụng phương pháp tâm vấn nào?
3. Khi sử dụng các tài nguyên thuộc linh, các nhà tâm vấn Cơ đốc thường gặp phải hai điểm yếu nào? Bạn làm cách nào để tránh trường hợp như vậy?
4. Phạm vi sử dụng các phương tiện thuộc linh tùy thuộc vào những yếu tố nào? Trong trường hợp nào nhà tâm vấn không sử dụng các phương tiện thuộc linh?
5. Bạn suy nghĩ thế nào về câu “Nhà tâm vấn Cơ đốc được coi là công cụ, qua đó Đức Thánh Linh có thể sử dụng để đem lại sự chữa lành tâm trí”?
6. Chúa Giê-xu dùng phương cách tâm vấn khác nhau với mọi người Ngài gặp. Điều này nhắc nhở người làm công tác tâm vấn điều gi?
7. Việc sử dụng lời Chúa quan trọng và hữu ích như thế nào trong quá trình tâm vấn? Hãy nêu ra những tài nguyên thuộc linh khác trong tâm vấn.
Tiến Trình Tâm Vấn Cơ Đốc
Có bao giờ bạn băn khoăn về những đổi thay trong cuộc đời Phao-lô sau khi ông trở thành Cơ-đốc nhân không? Ông là người được ăn học, xuất thân từ một gia đình danh giá. Thời gian đầu trong chức nghiệp, Phao-lô được giới lãnh đạo tôn giáo kính trọng, được kẻ thù nể nang và cũng rất có thể cũng được quần chúng thán phục vì lòng hăng hái, nhiệt thành của ông về đạo. Nhưng rồi Phao-lô trở thành Cơ-đốc nhân, ông kinh nghiệm được ơn tha thứ và cảm nhận được sự bình an đến từ Chúa Cứu Thế. Nhưng trong bức thư thứ nhì gửi cho các tín hữu tại Cô-rinh-tô, ông bảo rằng từ khi qui đạo ông đã trải qua bao nhiêu lao nhọc, đòn vọt, khốn đốn, lo lắng, tù đày (IICo 11:23-30).
Hiển nhiên, những lần bị tù là thời gian vô cùng khốn khổ, nhưng Phao-lô không than van hay ngồi yên khoanh tay, bó gối. Trái lại, ông tận dụng thời gian trong tù để viết thư khích lệ và khuyên dạy giáo hữu. Phi-líp là một trong những bức thư đó. Lúc này Phao-lô đang bị cùm xiềng (Phi 1:14), ông nghe nói một số bạn bè là tín hữu không được vui vẻ với nhau. Trong thư, ông nài xin họ hiệp một trong Chúa và xin những người lãnh đạo Hội Thánh giúp họ vượt qua các mối bất đồng (4:2,3). Ông cũng đề cập đến ba điều các cố vấn cũng như người cần tâm vấn phải lưu tâm.
Các Mối Quan Ngại Trong Tâm Vấn
Khi trao đổi với nhà tâm vấn, hầu như ai cũng bày tỏ quan ngại về cảm xúc của mình. (thí dụ như nhiều người thấy xuống tinh thần, buồn nản, cô đơn hay giận dữ); có những nan đề trong suy nghĩ (“lúc nào tôi cũng nghĩ mình xấu xí và chỉ là một kẻ thua cuộc” hay “Lúc nào tôi cũng có những ý tưởng dâm dục mà không sao loại bỏ được”); hay quan ngại về hành động (“Tôi không kiềm chế nổi tính nóng giận” hay “Tôi không thể bỏ tật xem ảnh khiêu dâm”). Ba lĩnh vực quan ngại này – xúc cảm, suy nghĩ và hành động, cần phải được lưu tâm đến trong hầu hết mọi tình huống tâm vấn.
Những quan ngại về xúc cảm. Mọi người đều có xúc cảm nhưng khác nhau trong cách biểu lộ những xúc cảm này. Tùy theo cá tính, có người dễ dàng thừa nhận xúc cảm, có người che giấu. Đối với một số nền văn hoá ở một số gia đình, việc biểu lộ xúc cảm được khích lệ, nhưng trong những nhóm khác, người ta hiếm khi nhìn nhận hay nói ra xúc cảm của mình. Tuy nhiên, ngay cả khi không nói ra, nhiều người được tâm vấn vẫn thấy ngượng ngùng vì những xúc cảm ngã lòng, nản chí, lo lắng hay có mặc cảm mắc tội.
Chúa Giê-xu cũng có xúc cảm và Kinh Thánh cho biết Ngài thường bày tỏ lòng thương cảm, nhưng cũng có lúc Ngài nổi giận (Mac 3:5), lo buồn và bối rối Mat 26:37-38). Chúng ta cũng biết Chúa từng khóc (Lu 19:41 Gi 11:35), và cũng có trường hợp Chúa rất buồn phiền.
Phao-lô cũng có lúc buồn bực, nhất là khi ở trong tù, nhưng trong tất cả những bất ưng và thiếu thốn đó, ông vẫn tập sống thỏa lòng (Phi 4:12). Ông từng viết rằng Cơ-đốc nhân cần sống vui mừng, vượt lên trên mọi nỗi lo buồn. Làm sao sống được như vậy? Hầu hết các nhà tâm vấn đều khám phá ra rằng chúng ta có thể bảo người ta đừng lo lắng, đừng cô đơn, đừng ngã lòng, nhưng trong thực tế, thay đổi xúc cảm theo ý muốn hầu như là điều bất khả thi! Vì vậy, thừa nhận xúc cảm, như khóc chẳng hạn, cũng là một điều tốt. Tuy nhiên, Phao-lô nói đến những phương thức khác giúp vượt qua những xúc cảm không vui như lo lắng chẳng hạn. Ông khuyên nên có những hành vi nhẹ nhàng từ tốn (Đôi khi xúc cảm dâng lên quá mạnh làm chúng ta nói năng hay hành động thiếu nhẹ nhàng khiến phải hối tiếc về sau). Ông cũng nhắc, “Đừng lo phiền chi hết nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ gìn giữ lòng và ý tưởng anh em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu” (Phi 4:6-7).
Xúc cảm có thể ảnh hưởng đến cả tâm trí và thân thể. Khi chúng ta ưu tư hay lo lắng, mọi suy nghĩ bị ảnh hưởng, có thể làm suy xụp sức khoẻ và chúng ta đau bịnh. Vì thế điều quan trọng là nhà tâm vấn phải ý thức được những xúc cảm của người được tâm vấn. Nếu họ không thổ lộ xúc cảm của mình thì người cố vấn nên hỏi.
Quan ngại về suy nghĩ. Người ta từng cho rằng hầu hết nan đề của con người khởi sự từ tâm trí- và hầu hết cũng giải quyết từ trong tâm trí. Tham dục, bạo động, ganh tị, chỉ trích, thù ghét, và quyết định gây chiến, tất cả khởi sự trong tâm trí. Theo thư He 12:15, những rắc rối cá nhân và các mối quan hệ trở nên căng thẳng khi người ta nuôi dưỡng những tư tưởng cay đắng. Nhưng cũng chính tâm trí là chỗ quyết định yêu thương, bày tỏ lòng thương cảm, sống hài hoà với mọi người hay kiềm chế các xung động tinh thần. Vì thế phần lớn mục vụ tâm vấn là đối phó với suy nghĩ của tâm trí. Thánh Phao-lô đúc kết trong Phi 4:8, “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen thì anh em phải nghĩ đến.”
Nhiều năm trước một hội thánh ở Canada tổ chức bữa ăn đặc biệt thết đãi một trong những thuộc viên lâu năm. Nhiều người nhắc đến tinh thần dấn thân phục vụ Chúa phục vụ tha nhân, nhưng có một người phát biểu một câu tạo ấn tượng sâu sắc nhất, bảo rằng,“Tôi biết người anh em yêu dấu này từ rất nhiều năm nhưng chưa hề nghe anh có một lời nào phê phán bất cứ ai.”
Những người từ chối không chịu nghĩ đến việc chỉ trích thường có đời sống tinh thần và tâm linh khỏe mạnh. Trong khi đó, những người hay có tư tưởng phê phán, tự lên án, hay tự thương hại một cách vô cớ thường là những người hay có nan đề trong sức khoẻ tinh thần. Đôi khi người được tâm vấn tự đi đến những kết luận rất sai về chính mình hay về người khác. Nếu phải giúp những người như thế, chúng ta cần cố gắng tìm hiểu suy nghĩ của họ, giúp họ có những những suy nghĩ chính xác, không thành kiến và phù hợp với các giáo huấn của Kinh Thánh.
Quan ngại về hành động. Nhiều năm trước một nhà tâm vấn viết một cuốn sách nói rằng mọi nan đề đều là hậu quả của những hành động tội lỗi. Quyển sách cho rằng khi một người đến xin được tâm vấn thì nhiệm vụ duy nhất của nhà tâm vấn là tìm cho ra tội lỗi người đó đã phạm và khuyên bảo đương sự từ bỏ tội lỗi đó.
Hầu hết các Cơ-đốc nhân đều đồng ý rằng mọi nan đề của con người xuất phát từ tội của A-đam và Ê-va tại vườn Ê-đen. Hầu hết chúng ta cũng đồng ý rằng khi người ta phạm tội thì những nan đề cá nhân thường theo sau. Kinh Thánh nói rất rõ rằng Đức Chúa Trời là Đấng công chính và tội lỗi sẽ bị trừng phạt.
Tuy nhiên bảo rằng công việc chính của nhà tâm vấn là đi tìm tội lỗi trong đời sống người được tâm vấn là quá đơn giản. Thi 73:1-28 là một nhận định rất thực tiễn về tội lỗi. Tác giả bảo rằng, trước mắt những kẻ phạm tội công khai tưởng như không gặp nan đề gì còn những người sống ngay lành lại gặp nhiều gian truân, nhưng rồi ra đến cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ phán xét công bình.
Chuyện ông Gióp trong Cựu ước là một trường hợp điển hình. Theo Kinh Thánh, Gióp là một người công chính nhưng ông có nhiều nỗi căng thẳng cùng cực. Bạn bè ông và cả Sa-tan đều nhất quyết bảo rằng những khổ nặn Gióp phải chịu là do tội lỗi, nhưng Đức Chúa Trời phủ nhận quan điểm này. Nan đề của Gióp không phải vì ông phạm tội (Giop 2:3).
Tất nhiên nan đề có thể do người được tâm vấn đã lầm lỗi hay thiếu khôn ngoan, nhưng nan đề cũng xuất hiện khi một người không được hướng dẫn, ít học, hay là nạn nhân hành động của của người khác. Nan đề xuất hiện có thể do rất nhiều lý do.
Để giúp ngăn ngừa những khó khăn như thế bức thư trong lao tù của Phao-lô truyền dạy cơ đốc nhân thực hành những gì họ đã thấy, đã nghe, đã học nơi ông (Phi 4:9). Sự bình an của Đức Chúa Trời được hứa ban cho những người có cuộc sống tôn cao Chúa Cứu Thế cho dù vẫn phải tiếp tục sống trong hoạn nạn. Hội thánh tại thành Phi-líp là Hội thánh nhận bức thư này rõ ràng là đã có nhiều thuộc viên có niềm tin được thể hiện ra thành những hành động yêu thương. Họ đã quan tâm chăm sóc Phao-lô trong cơn hoạn nạn và ông rất biết ơn họ. Chắc hẳn Phao-lô cũng cùng một ý với Gia-cơ bảo rằng chúng ta cần phải là người làm theo lời Chúa chứ không chỉ nghe xuông (Gia 1:22).
Cũng cần để ý rằng Phao-lô có một thái độ rất hay trước khó khăn. Hai lần ông bảo rằng gặp cảnh ngộ nào ông cũng tập sống thỏa lòng (Phi 4:11-2). Bí quyết sống thỏa lòng của ông được ghi trong Phi-líp chương 4 và chắc chắn có thể được áp dụng cho các nhà tâm vấn cũng như những người được tâm vấn thời nay. Và cũng như Phao-lô, chúng ta có thể trở thành những người bén nhạy với người khác khi quan tâm đến tình cảm, suy nghĩ và hành động của họ.
Những Giai Đoạn Tâm Vấn
Hầu hết chúng ta đều có kinh nghiệm mua sắm và hầu như món đồ nào cũng đều kèm theo tờ hướng dẫn cách sử dụng. Đôi lúc có những món chúng ta phải theo sát từng bước mới có thể ráp món đồ lại được. Công tác tâm vấn cũng sẽ dễ dàng nếu chúng ta có mẫu chỉ dẫn từng bước để có thể phục hồi những cuộc đời tan vỡ. Tâm vấn sẽ đơn giản nếu các nan đề có thể được giải quyết như cách nấu ăn trình bày trong sách dạy gia chánh, nghĩa là bao gồm những hướng dẫn chi tiết nếu theo đúng thì chắc chắn làm được. Nhưng như chúng ta thấy, con người không đơn giản như thế và những nan đề của con người không giống như các bộ phận của cái máy hay như các vật liệu để nấu món ăn. Mỗi người và mỗi nan đề đều phải được giúp đỡ và giải quyết bằng những cách riêng và đây chính là lý do khiến cho công tác tâm vấn vừa khó khăn vừa đầy thách thức.
Nhiều năm trước đây một công trình nghiên cứu 500 mục sư quản nhiệm các giáo sở kết luận rằng hầu hết các mục sư làm tâm vấn đều “có một cảm xúc rất thấm thía với tâm trạng chán nản, hoang mang và ngay cả với ý thức nghĩ rằng mình vô dụng” mỗi khi được gọi nhờ giúp đỡ. Cuộc thăm dò cho biết khi giáo hữu nhờ giúp giải quyết nan đề, nhiều nhà lãnh đạo hội thánh cảm thấy rất lo lắng, bối rối, ngại ngần.
Đây cũng là cảm xúc thông thường, ngay cả đối với những người hướng dẫn có kinh nghiệm làm tâm vấn cũng vậy. Nhà tâm vấn có thể cố gắng bày tỏ những đặc tính như đã bàn trong chương 2 và sử dụng những kỹ thuật nêu lên trong chương 3. Tuy nhiên, cũng có lúc nhà tâm vấn cần tự hỏi, “Bước kế tiếp tôi phải làm gì?” Làm sao nhà tâm vấn có thể hoàn tất một tiến trình tâm vấn từ đầu đến cuối?
Chia tiến trình tâm vấn thành từng bước hay từng giai đoạn có phần không thực tế vì biên giới giữa các giai đoạn thường mơ hồ, hơn nữa các giai đoạn cũng có thể trùng lấp. Dù vậy, việc phân chia này có lợi ở chỗ giúp chúng ta thấy rõ diễn tiến của quá trình tâm vấn và có thể chia làm bốn giai đoạn như sau: giai đoạn giới thiệu và tìm hiểu, giai đoạn thiết định mục tiêu, giai đoạn đi vào giải pháp bằng hành động, và giai đoạn kết thúc. Cả bốn giai đoạn này có thể hoàn tất trong một lần trao đổi, nhưng thông thường được trải ra trong một thời gian dài hơn.
Giai Đoạn Giới Thiệu-Tìm Hiểu (GĐ-1)
Có ít nhất ba mục tiêu cần đạt được vào lúc khởi đầu chương trình tâm vấn. Chúng ta phải tiếp xúc với đối tượng có nhu cầu, thiết lập quan hệ với đối tượng, và tìm cách xác định nan đề đối tượng đang có.
Tiếp xúc. Hiển nhiên chúng ta không thể làm tâm vấn nếu chưa bao giờ gặp gỡ người cần giúp. Vì vậy, để khởi sự mục vụ tâm vấn, cần cho người ta biết chúng ta sẵn sàng giúp. Có thể làm việc này bằng hai cách: thông báo cho biết chúng ta muốn giúp và bày tỏ cho thấy mối quan tâm của chúng ta.
Đôi khi cần có một thông báo chính thức về mục vụ tâm vấn in trong bản tin hay chương trình của hội thánh, hay thông báo đọc trong buổi nhóm: “Mục Sư có mục vụ tâm vấn vào thứ ba và thứ năm hàng tuần. Tín hữu nào có nhu cầu xin gọi điện thoại lấy hẹn.” Cũng có thể thông báo một cách thân mật trong những dịp sinh hoạt khác: “Trong vòng các con cái Chúa ai có nan đề trong đời sống cá nhân hoặc gia đình muốn tâm sự với chúng tôi, xin đừng ngại, chúng tôi có dành thì giờ để chúng ta có thể trò chuyện trao đổi với nhau.”
Khởi đầu, lối kêu gọi này có thể không khiến người ta sắp hàng đến xin tâm vấn đâu, nhưng thông thường hơn, mục vụ tâm vấn thực sự phát triển từ những tiếp xúc thân mật với những người chúng ta gặp gỡ đâu đó hay trong hội thánh. Thí dụ như những người trẻ thường cởi mở hơn, thổ lộ nan đề cá nhân sau khi quen biết người hướng dẫn thanh niên trong dịp đi xem một trận thi đấu thể thao hay những buổi họp mặt thân mật nào khác. Lúc uống cà-phê chung hay trò chuyện trên đường về sau buổi nhóm, cũng thường là cơ hội thổ lộ nan đề mà sau đó có thể trở thành những buổi trao đổi tâm vấn chính thức. Có thể khéo léo tiếp tục câu chuyện bằng cách gợi ý như sau, “Sau 4 giờ chiều mai có thì giờ rộng rãi hơn, nếu mình trao đổi thêm chuyện này chắc sẽ rất hữu ích.” Gợi ý như thế vừa nhẹ nhàng vừa tự nhiên nhưng khá hữu hiệu để có buổi hẹn.
Thiết lập quan hệ. Lúc khởi đầu, hai điều rất quan trọng là làm cho người được tâm vấn thấy thoải mái và thiết lập quan hệ -một mối quan hệ nhẹ nhàng, tin cậy giữa cố vấn và người được tâm vấn. Khung cảnh tươi vui, yên tĩnh, không bị quấy rầy cộng thêm với một số đặc tính thích hợp của nhà tâm vấn như đã nêu lên trong chương 2, sẽ giúp cho mối tương giao xuất hiện với một khởi đầu tốt đẹp. Trong giai đoạn này, thông thường cũng sẽ nảy sinh một cảm nhận gọi là lượng định hỗ tương qua đó cả người cố vấn lẫn người được tâm vấn cùng để ý nhau rất kỹ để có những kết luận sơ khởi về mối quan hệ song phương. Nếu kết quả đánh giá này đưa đến những cảm nhận tích cực thì giai đoạn đầu tiên của mối quan hệ thực sự đã được thiết lập.
Đôi khi người cần tâm vấn thấy khó khăn đối diện với nan đề hay chia xẻ nan đề với cố vấn cho nên mở đầu thường chỉ bàn chuyện thời tiết hay những chủ đề vô thưởng vô phạt, trước khi đụng đến nan đề. Nhà tâm vấn cần biểu lộ tinh thần sẵn lòng “ở với” người cần tâm vấn để lắng nghe và đôi khi cần hỗ trợ, khích lệ đặc biệt là trong giai đoạn đầu của tiến trình tâm vấn để rồi dần dà người cần tâm vấn sẽ thổ lộ cho biết tại sao mình đến xin tâm vấn. Câu hỏi, “Tôi có thể giúp gì?” và thái độ quan tâm của nhà tâm vấn sẽ khích lệ người đó thổ lộ nan đề.
Làm sáng tỏ nan đề. Mới đầu chúng ta tưởng việc này khá dễ dàng, nghĩa là chỉ cần hỏi người có nhu cầu tâm vấn cho biết nan đề là gì rồi tìm giải pháp. Trong thực thế vấn đề thường không đơn giản như vậy. Đôi khi người ta rất ngại thổ lộ nan đề. Thường họ biết có điều gì đó làm họ bận tâm nhưng lại không xác định được. Có khi họ nêu ra nan đề nhưng về sau người cố vấn lại khám phá ra rằng vấn đề họ nói không phải là nan đề chính hay là nan đề duy nhất. Vì vậy công việc của bạn, nhà tâm vấn, là lắng nghe, quan sát, khích lệ và đôi khi góp ý hay nêu các câu hỏi ngắn để giúp làm sáng tỏ hình ảnh người đó: cá tính, nan đề, quan điểm về cuộc đời và những nỗ lực trong quá khứ của đương sự nhằm giải quyết nan đề. Những câu hỏi khai mở như thế cũng giúp người được tâm vấn cảm thấy thoải mái hơn, có cái nhìn vào nan đề rõ ràng hơn, và đôi khi có thể giải tỏa được những xúc cảm và bực dọc bị ức chế chưa được nói ra.
Trong giai đoạn này, nhà tâm vấn cũng có thể dò dẫm tìm hiểu những khía cạnh sau: Tôi có thể làm việc với người này không? Tôi có muốn thủ giúp không? Nan đề của người này có ngoài lãnh vực chuyên môn và ngoài khả năng của tôi không? Cùng lúc đó, người cần tâm vấn cũng có thể tự hỏi: Tôi có tin được nhà tâm vấn này không? Người cố vấn này có thể giúp được tôi không? Tôi có muốn cam kết tiếp tục tiến trình tâm vấn này không?
Có thể vào phần cuối của buổi gặp gỡ đầu tiên, những câu hỏi như trên có thể được nêu lên thảo luận, và nhà tâm vấn có thể nói đại khái như , “Tôi có thể giúp anh được, nhưng chúng ta cần phải có nhiều buổi trao đổi với nhau. Anh thấy sao?” Lọai thảo luận như thế gọi là sắp xếp tiến trình (structuring) để quyết định xem tiến trình tâm vấn có thể tiến hành không và nếu tiếp tục thì sẽ như thế nào.
Giai Đoạn Định Mục Tiêu (GĐ –2)
Nhiều thế kỷ trước, vua Đa-vít bày tỏ thái độ kinh ngạc về việc Đức Chúa Trời quan tâm thật sâu sắc cả đến ý tưởng và những lo lắng của những loài Ngài sáng tạo khi ông viết trong Thi 139:14, “Tôi ca ngợi Chúa, vì Chúa đã sáng tạo tôi cách đáng sợ lạ lùng.”
Hầu hết các nhà tâm vấn đều thấy ngay đối tượng của mình “ được tạo dựng rất đáng sợ lạ lùng,” với cá tính phức hợp và những lối suy tưởng nhiêu khê, phức tạp. Không một con người nào có khả năng hiểu hết về người khác mà chỉ với sự trợ giúp của Chúa, nhà tâm vấn mới có thể khởi sự hiểu được đối tượng, và cũng chỉ với sự trợ giúp từ trên cao nhà tâm vấn mới có thể giúp được người có nan đề.
Tuy nhiên điều quan trọng là chúng ta thực hành mục vụ tâm vấn trong tinh thần cầu nguyện và thái độ khiêm nhu. Cầu nguyện cho đối tượng và cho tiến trình tâm vấn trrước và sau mỗi buổi gặp mặt sẽ giúp ích rất nhiều. Cũng có nhiều nhà tâm vấn thường cầu nguyện thầm ngay trong giờ trao đổi.
Với sự trợ giúp của Chúa và sau khi đã cẩn thận lắng nghe và tìm hiểu, bạn có thể dần dần xác định được nan đề cần giải quyết. Đôi khi bạn có thể khám phá ngay nan đề sau vài phút trao đổi, nhưng cũng có lúc phải mất nhiều tuần bạn mới có thể biết đối tượng đang bị điều gì dằn vặt. Cũng có những tình huống nhà tâm vấn không hoàn toàn hiểu nan đề đã phát triển như thế nào, nhưng nếu bạn có thể hình dung khárõ nan đề là gì, bạn vẫn có thể giúp người cần tâm vấn đạt được giải pháp.
Những người mới bước vào lãnh vực tâm vấn thường lo lắng khi thấy mình không nhanh chóng tìm được cách giải quyết nan đề của đối tượng. Tâm trạng này phản ánh ý tưởng cho rằng nhà tâm vấn phải là người có câu trả lời và công tác tâm vấn giống như mối quan hệ giữa bác sĩ với bệnh nhân, qua đó bệnh nhân kê khai mọi triệu chứng và bác sĩ đưa ra phương thức trị liệu.
Trong lãnh vực tâm vấn, tiến trình không giống như thế, mà thông thường là người có nhu cầu mô tả chi tiết nan đề của mình rồi cả người đó và nhà tâm vấn cùng hợp lực tìm giải pháp. Vì khách quan, lại được trang bị, có nhiều kinh nghiệm và sáng suốt cho nên nhà tâm vấn có thể nghĩ đến những điều và những việc khả thi mà người có nan đề chưa bao giờ để tâm. Người cần tâm vấn có thể cũng phải nhìn thẳng vào những thái độ tội lỗi và chủ bại, là nguyên nhân gây ra nan đề. Cả hai cũng có thể thảo luận, tìm hiểu xem điều gì trong quá khứ đã gây ra nan đề và tìm phương giải quyết trong hiện tại. Có thể cũng cần phải xét cả những áp lực của hoàn cảnh như những khó khăn trong gia đình hay những bất ổn chính trị gây căng thẳng và làm nan đề trầm trọng hơn.
Khi cả nhà tâm vấn và đối tượng cùng hiểu rõ tình hình, thấy nan đề đã được đối phó như thế nào trong quá khứ – thành công hay chưa thành công, và rồi sẽ phải giải quyết như thế nào trong tương lai để được hữu hiệu hơn. Cả nhà tâm vấn và người được tâm vấn cần suy tìm những loại giải pháp khả thi và chọn mục tiêu cho việc giải quyết nan đề.
Mục tiêu mơ hồ thường không hữu ích cho quá trình tâm vấn. Nếu một cặp vợ chồng có nan đề hôn nhân và mục tiêu giải quyết là “để sống thuận thảo hơn,” thì không lâu họ sẽ thấy mục tiêu đó quá mơ hồ, không giúp họ tìm được phương hướng giải quyết. Tiến trình sẽ hữu hiệu hơn nếu tìm được những mục tiêu rõ ràng cụ thể. Thí dụ như họ quyết định mỗi ngày khen tặng nhau một lần hay cố gắng lắng nghe nhau trong năm phút. Đây có vẻ là những mục tiêu nhỏ nhoi, nhưng lại rất cụ thể, dễ thực hiện, cũng dễ thấy họ có đạt được hay không.
Một số nhà tâm vấn khích lệ người cần tâm vấn lập một bảng liệt kê những hành động có thể làm để thay đổi thái độ và tác phong. Ấn định cách thức và thời gian những mục tiêu này phải hoàn hành rồi xin Đức Chúa Trời giúp người đó thực hiện để đạt mục tiêu trong khoảng thời gian giữa các buổi họp tâm vấn.
Giai Đoạn Hành Động Theo Giải Pháp (GĐ-3)
Có bao giờ bạn từng quyết định sẽ thay đổi tác phong như thế nào đó nhưng rồi lại thấy mình không bao giờ khởi sự hành động đạt mục tiêu. Hầu hết chúng ta từng biết có những người ghiền thuốc lá quyết định bỏ, nhưng vẫn cứ tiếp tục hút nhiều năm sau rồi mới thực sự thôi.
Nhà tâm vấn cũng thường gặp những tình huống tương tự. Một người có nan đề đã thảo luận và quyết định nhiều giải pháp, nhưng cứ lần lữa, trì hoãn hành động. Đây không phải là điều khó hiểu. Nghĩ đến những ý hướng tốt rất dễ, nhưng quyết định hành động để đạt đến mục tiêu thường khó hơn nhiều. Vì vậy thách thức của nhà tâm vấn là làm sao khích lệ người đó hành động hoặc chấp nhận, giúp người đó cố gắng làm lại mỗi khi thất bại hay đề nghị biện pháp mới mỗi khi giải pháp cũ không kết quả và thường xuyên huớng dẫn trong quá trình người đó thực hành giải pháp.
Đôi khi có tình huống nhà tâm vấn thấy không thể thay đổi mà chỉ có thể chấp nhận hay thích ứng, thí dụ như trong trường hợp một phụ nữ chồng chết thì hiển nhiên bà không thể làm gì hơn là chấp nhận, nhưng nhà tâm vấn có thể giúp bà biết cách điều chỉnh để có thể sống trong cảnh goá bụa.
Qua tất cả những phương thức này, nhà tâm vấn Cơ đốc luôn luôn giữ mối quan tâm đối với sức khoẻ tâm linh của người có nan đề, đưa ra những hướng dẫn cho thấy trong cuộc sống rối ren nhiều khó khăn, ChúaCứu Thế có thể làm gì cứu giúp họ.
Như vậy, cả nhà tâm vấn và người được tâm vấn phải đi vào thực hành nhiều hơn là chỉ bàn suông về nan đề và giải pháp. Mỗi giải pháp cần phải được thực nghiệm và sau đó được người có nan đề đánh giá, tốt nhất là với sự trợ giúp của nhà tâm vấn. Nếu giải pháp không kết quả, cả hai cần xem xét lại nan đề, thảo luận thêm, tái đánh giá những suy nghĩ trước và thử nghiệm lại.
Giai Đoạn Kết Thúc (GĐ-4)
Khi nhà tâm vấn và người có nhu cầu đã biết rõ nan đề, đã thảo luận chi tiết, đã đưa ra được những mục tiêu có thể đạt tới và đã khởi sự tìm giải pháp thì đây cũng là lúc tiến trình tâm vấn phải kết thúc. Nếu quá trình vừa nêu lâu dài và tốt đẹp thì việc kết thúc có thể khó. Vì khó nói lời từ biệt cho nên nhà tâm vấn đôi khi cố tiếp tục tiến trình tâm vấn dù không còn cần thiết nữa. Vì vậy, khi thấy đã đến giai đoạn kết thúc, nhà tâm vấn có thể nói, “Tôi thấy chúng ta đã tiến đến giai đoạn anh/chị có thể tự giải quyết nan đề không cần tôi trợ giúp nữa.” Nói như vậy sẽ giúp người có nan đề hiểu rằng tiến trình tâm vấn sắp xong. Đôi khi cũng cần phải bàn thảo nếu việc kết thúc tiến trình này gặp khó khăn. Dù sao người có nan đề cần biết rằng “cánh cửa luôn luôn rộng mở” nếu người đó thấy việc tiếp xúc với nhà tâm vấn giúp ích cho mình. Cũng cần thảo luận để người có nan đề biết cách tự giải quyết với sự trợ giúp tối thiểu từ bên ngoài. Mục tiêu chính của tương quan tâm vấn là giúp người có nan đề đối phó hữu hiệu hơn với những khó khăn trong đời sống, vì vậy kết thúc một tiến trình tâm vấn không phải là đã xong. Kết thúc tiến trình tâm vấn chỉ là thời đìểm để người có nan đề khởi sự bước vào giai đoạn mới trong cuộc sống, trong đó những khó khăn được đối phó hữu hiệu hơn với sự trợ giúp từ Chúa.
Nhiều tuần sau khi kết thúc mục vụ tâm vấn, bạn có thể tiếp xúc với người được tâm vấn để biết tình trạng ra sao. Việc tiếp xúc này nói lên mối quan tâm chân thật sẽ giúp bạn đánh giá kết quả công tác tâm vấn của mình, cũng cho người đó cơ hội chia xẻ những diễn tiến mới trong đời sống hay nêu những thắc mắc nào xuất hiện sau khi tiến trình tâm vấn kết thúc. Mục tiêu ở đây không phải là khơi sâu tinh thần tùy thuộc hay dụ khách trở lại dịch vụ tâm vấn, nhưng chỉ là để bày tỏ tinh thần tiếp tục chăm sóc và quan tâm đến những người đã từng đến với mình.
Trong sách vở, những điều này xem ra đơn giản, dễ dàng, nhưng áp dụng trong thực hành khó hơn nhiều. Cần nhớ rằng nhà tâm vấn không một mình chịu hoàn toàn trách nhiệm về nan đề của người có nhu cầu, vì tâm vấn liên quan đến ít nhất hai người, cùng nhau cộng tác để giải quyết nan đề.
Cũng cần nhớ rằng những giai đoạn tâm vấn không luôn luôn theo trình tự. Thí dụ như việc xây dựng, củng cố quan hệ (establish rapport) trong tiến trình tâm vấn rất quan trọng không chỉ là vào lúc khởi đầu. Thường có tình trạng giao thoa giữa giai đoạn đặt mục tiêu (GĐ- 2) và giai đoạn hành động theo giải pháp (GĐ- 3).
Cuối cùng, cần phải nhận thức rằng tất cả các nan đề không nhất thiết được xử lý giống nhau. Một goá phụ bị tổn thương vì đau khổ, cần một loại tâm vấn khác hơn một thiếu niên bực dọc vì chương trình sinh hoạt thanh niên trong hội thánh tẻ nhạt. Vì vậy, người lãnh đạo Cơ-đốc cần hiểu những thể loại tâm vấn khác nhau, và đó là nội dung của chương sau.
Câu Hỏi Ôn Và Thảo Luận Chương 4: Tiến Trình Tâm Vấn Cơ Đốc
1. Thánh Phao-lô đề cập đến ba điều nào các nhà tâm vấn và được tâm vấn lưu tâm?
2. Khi trao đổi với nhà tâm vấn, người được tâm vấn có những quan ngại nào? Tại sao?
3. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, người được tâm vấn thường đối diện với những trở ngại nào? Tại sao bày tỏ cảm xúc là một thách thức?
4. Thánh Phao-lô nêu ra những phương cách nào giúp vượt qua những cảm xúc lo lắng tiêu cực?
5. Tại sao nhà tâm vấn phải ý thức được những cảm xúc của người được tâm vấn?
6. Bạn nhận xét thế nào về câu nói “Hầu hết nan đề của con người khởi sự từ tâm trí và hầu hết cũng giải quyết từ tâm trí”? Kinh Thánh dạy về điều này như thế nào?
7. Công việc chính của nhà tâm vấn là tìm tội lỗi trong đời sống người được tâm vấn và thay đổi hành vi của họ. Bạn đồng ý với câu nói trên không? Tại sao?
8. Làm thế nào để trở thành một nhà tâm vấn hữu hiệu, nhạy bén với người khác khi quan tâm đến tình cảm, suy nghĩ và hành động của họ?
Tiến Trình Tâm Vấn Cơ Đốc
Có bao giờ bạn băn khoăn về những đổi thay trong cuộc đời Phao-lô sau khi ông trở thành Cơ-đốc nhân không? Ông là người được ăn học, xuất thân từ một gia đình danh giá. Thời gian đầu trong chức nghiệp, Phao-lô được giới lãnh đạo tôn giáo kính trọng, được kẻ thù nể nang và cũng rất có thể cũng được quần chúng thán phục vì lòng hăng hái, nhiệt thành của ông về đạo. Nhưng rồi Phao-lô trở thành Cơ-đốc nhân, ông kinh nghiệm được ơn tha thứ và cảm nhận được sự bình an đến từ Chúa Cứu Thế. Nhưng trong bức thư thứ nhì gửi cho các tín hữu tại Cô-rinh-tô, ông bảo rằng từ khi qui đạo ông đã trải qua bao nhiêu lao nhọc, đòn vọt, khốn đốn, lo lắng, tù đày (IICo 11:23-30).
Hiển nhiên, những lần bị tù là thời gian vô cùng khốn khổ, nhưng Phao-lô không than van hay ngồi yên khoanh tay, bó gối. Trái lại, ông tận dụng thời gian trong tù để viết thư khích lệ và khuyên dạy giáo hữu. Phi-líp là một trong những bức thư đó. Lúc này Phao-lô đang bị cùm xiềng (Phi 1:14), ông nghe nói một số bạn bè là tín hữu không được vui vẻ với nhau. Trong thư, ông nài xin họ hiệp một trong Chúa và xin những người lãnh đạo Hội Thánh giúp họ vượt qua các mối bất đồng (4:2,3). Ông cũng đề cập đến ba điều các cố vấn cũng như người cần tâm vấn phải lưu tâm.
Các Mối Quan Ngại Trong Tâm Vấn
Khi trao đổi với nhà tâm vấn, hầu như ai cũng bày tỏ quan ngại về cảm xúc của mình. (thí dụ như nhiều người thấy xuống tinh thần, buồn nản, cô đơn hay giận dữ); có những nan đề trong suy nghĩ (“lúc nào tôi cũng nghĩ mình xấu xí và chỉ là một kẻ thua cuộc” hay “Lúc nào tôi cũng có những ý tưởng dâm dục mà không sao loại bỏ được”); hay quan ngại về hành động (“Tôi không kiềm chế nổi tính nóng giận” hay “Tôi không thể bỏ tật xem ảnh khiêu dâm”). Ba lĩnh vực quan ngại này – xúc cảm, suy nghĩ và hành động, cần phải được lưu tâm đến trong hầu hết mọi tình huống tâm vấn.
Những quan ngại về xúc cảm. Mọi người đều có xúc cảm nhưng khác nhau trong cách biểu lộ những xúc cảm này. Tùy theo cá tính, có người dễ dàng thừa nhận xúc cảm, có người che giấu. Đối với một số nền văn hoá ở một số gia đình, việc biểu lộ xúc cảm được khích lệ, nhưng trong những nhóm khác, người ta hiếm khi nhìn nhận hay nói ra xúc cảm của mình. Tuy nhiên, ngay cả khi không nói ra, nhiều người được tâm vấn vẫn thấy ngượng ngùng vì những xúc cảm ngã lòng, nản chí, lo lắng hay có mặc cảm mắc tội.
Chúa Giê-xu cũng có xúc cảm và Kinh Thánh cho biết Ngài thường bày tỏ lòng thương cảm, nhưng cũng có lúc Ngài nổi giận (Mac 3:5), lo buồn và bối rối Mat 26:37-38). Chúng ta cũng biết Chúa từng khóc (Lu 19:41 Gi 11:35), và cũng có trường hợp Chúa rất buồn phiền.
Phao-lô cũng có lúc buồn bực, nhất là khi ở trong tù, nhưng trong tất cả những bất ưng và thiếu thốn đó, ông vẫn tập sống thỏa lòng (Phi 4:12). Ông từng viết rằng Cơ-đốc nhân cần sống vui mừng, vượt lên trên mọi nỗi lo buồn. Làm sao sống được như vậy? Hầu hết các nhà tâm vấn đều khám phá ra rằng chúng ta có thể bảo người ta đừng lo lắng, đừng cô đơn, đừng ngã lòng, nhưng trong thực tế, thay đổi xúc cảm theo ý muốn hầu như là điều bất khả thi! Vì vậy, thừa nhận xúc cảm, như khóc chẳng hạn, cũng là một điều tốt. Tuy nhiên, Phao-lô nói đến những phương thức khác giúp vượt qua những xúc cảm không vui như lo lắng chẳng hạn. Ông khuyên nên có những hành vi nhẹ nhàng từ tốn (Đôi khi xúc cảm dâng lên quá mạnh làm chúng ta nói năng hay hành động thiếu nhẹ nhàng khiến phải hối tiếc về sau). Ông cũng nhắc, “Đừng lo phiền chi hết nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ gìn giữ lòng và ý tưởng anh em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu” (Phi 4:6-7).
Xúc cảm có thể ảnh hưởng đến cả tâm trí và thân thể. Khi chúng ta ưu tư hay lo lắng, mọi suy nghĩ bị ảnh hưởng, có thể làm suy xụp sức khoẻ và chúng ta đau bịnh. Vì thế điều quan trọng là nhà tâm vấn phải ý thức được những xúc cảm của người được tâm vấn. Nếu họ không thổ lộ xúc cảm của mình thì người cố vấn nên hỏi.
Quan ngại về suy nghĩ. Người ta từng cho rằng hầu hết nan đề của con người khởi sự từ tâm trí- và hầu hết cũng giải quyết từ trong tâm trí. Tham dục, bạo động, ganh tị, chỉ trích, thù ghét, và quyết định gây chiến, tất cả khởi sự trong tâm trí. Theo thư He 12:15, những rắc rối cá nhân và các mối quan hệ trở nên căng thẳng khi người ta nuôi dưỡng những tư tưởng cay đắng. Nhưng cũng chính tâm trí là chỗ quyết định yêu thương, bày tỏ lòng thương cảm, sống hài hoà với mọi người hay kiềm chế các xung động tinh thần. Vì thế phần lớn mục vụ tâm vấn là đối phó với suy nghĩ của tâm trí. Thánh Phao-lô đúc kết trong Phi 4:8, “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen thì anh em phải nghĩ đến.”
Nhiều năm trước một hội thánh ở Canada tổ chức bữa ăn đặc biệt thết đãi một trong những thuộc viên lâu năm. Nhiều người nhắc đến tinh thần dấn thân phục vụ Chúa phục vụ tha nhân, nhưng có một người phát biểu một câu tạo ấn tượng sâu sắc nhất, bảo rằng,“Tôi biết người anh em yêu dấu này từ rất nhiều năm nhưng chưa hề nghe anh có một lời nào phê phán bất cứ ai.”
Những người từ chối không chịu nghĩ đến việc chỉ trích thường có đời sống tinh thần và tâm linh khỏe mạnh. Trong khi đó, những người hay có tư tưởng phê phán, tự lên án, hay tự thương hại một cách vô cớ thường là những người hay có nan đề trong sức khoẻ tinh thần. Đôi khi người được tâm vấn tự đi đến những kết luận rất sai về chính mình hay về người khác. Nếu phải giúp những người như thế, chúng ta cần cố gắng tìm hiểu suy nghĩ của họ, giúp họ có những những suy nghĩ chính xác, không thành kiến và phù hợp với các giáo huấn của Kinh Thánh.
Quan ngại về hành động. Nhiều năm trước một nhà tâm vấn viết một cuốn sách nói rằng mọi nan đề đều là hậu quả của những hành động tội lỗi. Quyển sách cho rằng khi một người đến xin được tâm vấn thì nhiệm vụ duy nhất của nhà tâm vấn là tìm cho ra tội lỗi người đó đã phạm và khuyên bảo đương sự từ bỏ tội lỗi đó.
Hầu hết các Cơ-đốc nhân đều đồng ý rằng mọi nan đề của con người xuất phát từ tội của A-đam và Ê-va tại vườn Ê-đen. Hầu hết chúng ta cũng đồng ý rằng khi người ta phạm tội thì những nan đề cá nhân thường theo sau. Kinh Thánh nói rất rõ rằng Đức Chúa Trời là Đấng công chính và tội lỗi sẽ bị trừng phạt.
Tuy nhiên bảo rằng công việc chính của nhà tâm vấn là đi tìm tội lỗi trong đời sống người được tâm vấn là quá đơn giản. Thi 73:1-28 là một nhận định rất thực tiễn về tội lỗi. Tác giả bảo rằng, trước mắt những kẻ phạm tội công khai tưởng như không gặp nan đề gì còn những người sống ngay lành lại gặp nhiều gian truân, nhưng rồi ra đến cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ phán xét công bình.
Chuyện ông Gióp trong Cựu ước là một trường hợp điển hình. Theo Kinh Thánh, Gióp là một người công chính nhưng ông có nhiều nỗi căng thẳng cùng cực. Bạn bè ông và cả Sa-tan đều nhất quyết bảo rằng những khổ nặn Gióp phải chịu là do tội lỗi, nhưng Đức Chúa Trời phủ nhận quan điểm này. Nan đề của Gióp không phải vì ông phạm tội (Giop 2:3).
Tất nhiên nan đề có thể do người được tâm vấn đã lầm lỗi hay thiếu khôn ngoan, nhưng nan đề cũng xuất hiện khi một người không được hướng dẫn, ít học, hay là nạn nhân hành động của của người khác. Nan đề xuất hiện có thể do rất nhiều lý do.
Để giúp ngăn ngừa những khó khăn như thế bức thư trong lao tù của Phao-lô truyền dạy cơ đốc nhân thực hành những gì họ đã thấy, đã nghe, đã học nơi ông (Phi 4:9). Sự bình an của Đức Chúa Trời được hứa ban cho những người có cuộc sống tôn cao Chúa Cứu Thế cho dù vẫn phải tiếp tục sống trong hoạn nạn. Hội thánh tại thành Phi-líp là Hội thánh nhận bức thư này rõ ràng là đã có nhiều thuộc viên có niềm tin được thể hiện ra thành những hành động yêu thương. Họ đã quan tâm chăm sóc Phao-lô trong cơn hoạn nạn và ông rất biết ơn họ. Chắc hẳn Phao-lô cũng cùng một ý với Gia-cơ bảo rằng chúng ta cần phải là người làm theo lời Chúa chứ không chỉ nghe xuông (Gia 1:22).
Cũng cần để ý rằng Phao-lô có một thái độ rất hay trước khó khăn. Hai lần ông bảo rằng gặp cảnh ngộ nào ông cũng tập sống thỏa lòng (Phi 4:11-2). Bí quyết sống thỏa lòng của ông được ghi trong Phi-líp chương 4 và chắc chắn có thể được áp dụng cho các nhà tâm vấn cũng như những người được tâm vấn thời nay. Và cũng như Phao-lô, chúng ta có thể trở thành những người bén nhạy với người khác khi quan tâm đến tình cảm, suy nghĩ và hành động của họ.
Những Giai Đoạn Tâm Vấn
Hầu hết chúng ta đều có kinh nghiệm mua sắm và hầu như món đồ nào cũng đều kèm theo tờ hướng dẫn cách sử dụng. Đôi lúc có những món chúng ta phải theo sát từng bước mới có thể ráp món đồ lại được. Công tác tâm vấn cũng sẽ dễ dàng nếu chúng ta có mẫu chỉ dẫn từng bước để có thể phục hồi những cuộc đời tan vỡ. Tâm vấn sẽ đơn giản nếu các nan đề có thể được giải quyết như cách nấu ăn trình bày trong sách dạy gia chánh, nghĩa là bao gồm những hướng dẫn chi tiết nếu theo đúng thì chắc chắn làm được. Nhưng như chúng ta thấy, con người không đơn giản như thế và những nan đề của con người không giống như các bộ phận của cái máy hay như các vật liệu để nấu món ăn. Mỗi người và mỗi nan đề đều phải được giúp đỡ và giải quyết bằng những cách riêng và đây chính là lý do khiến cho công tác tâm vấn vừa khó khăn vừa đầy thách thức.
Nhiều năm trước đây một công trình nghiên cứu 500 mục sư quản nhiệm các giáo sở kết luận rằng hầu hết các mục sư làm tâm vấn đều “có một cảm xúc rất thấm thía với tâm trạng chán nản, hoang mang và ngay cả với ý thức nghĩ rằng mình vô dụng” mỗi khi được gọi nhờ giúp đỡ. Cuộc thăm dò cho biết khi giáo hữu nhờ giúp giải quyết nan đề, nhiều nhà lãnh đạo hội thánh cảm thấy rất lo lắng, bối rối, ngại ngần.
Đây cũng là cảm xúc thông thường, ngay cả đối với những người hướng dẫn có kinh nghiệm làm tâm vấn cũng vậy. Nhà tâm vấn có thể cố gắng bày tỏ những đặc tính như đã bàn trong chương 2 và sử dụng những kỹ thuật nêu lên trong chương 3. Tuy nhiên, cũng có lúc nhà tâm vấn cần tự hỏi, “Bước kế tiếp tôi phải làm gì?” Làm sao nhà tâm vấn có thể hoàn tất một tiến trình tâm vấn từ đầu đến cuối?
Chia tiến trình tâm vấn thành từng bước hay từng giai đoạn có phần không thực tế vì biên giới giữa các giai đoạn thường mơ hồ, hơn nữa các giai đoạn cũng có thể trùng lấp. Dù vậy, việc phân chia này có lợi ở chỗ giúp chúng ta thấy rõ diễn tiến của quá trình tâm vấn và có thể chia làm bốn giai đoạn như sau: giai đoạn giới thiệu và tìm hiểu, giai đoạn thiết định mục tiêu, giai đoạn đi vào giải pháp bằng hành động, và giai đoạn kết thúc. Cả bốn giai đoạn này có thể hoàn tất trong một lần trao đổi, nhưng thông thường được trải ra trong một thời gian dài hơn.
Giai Đoạn Giới Thiệu-Tìm Hiểu (GĐ-1)
Có ít nhất ba mục tiêu cần đạt được vào lúc khởi đầu chương trình tâm vấn. Chúng ta phải tiếp xúc với đối tượng có nhu cầu, thiết lập quan hệ với đối tượng, và tìm cách xác định nan đề đối tượng đang có.
Tiếp xúc. Hiển nhiên chúng ta không thể làm tâm vấn nếu chưa bao giờ gặp gỡ người cần giúp. Vì vậy, để khởi sự mục vụ tâm vấn, cần cho người ta biết chúng ta sẵn sàng giúp. Có thể làm việc này bằng hai cách: thông báo cho biết chúng ta muốn giúp và bày tỏ cho thấy mối quan tâm của chúng ta.
Đôi khi cần có một thông báo chính thức về mục vụ tâm vấn in trong bản tin hay chương trình của hội thánh, hay thông báo đọc trong buổi nhóm: “Mục Sư có mục vụ tâm vấn vào thứ ba và thứ năm hàng tuần. Tín hữu nào có nhu cầu xin gọi điện thoại lấy hẹn.” Cũng có thể thông báo một cách thân mật trong những dịp sinh hoạt khác: “Trong vòng các con cái Chúa ai có nan đề trong đời sống cá nhân hoặc gia đình muốn tâm sự với chúng tôi, xin đừng ngại, chúng tôi có dành thì giờ để chúng ta có thể trò chuyện trao đổi với nhau.”
Khởi đầu, lối kêu gọi này có thể không khiến người ta sắp hàng đến xin tâm vấn đâu, nhưng thông thường hơn, mục vụ tâm vấn thực sự phát triển từ những tiếp xúc thân mật với những người chúng ta gặp gỡ đâu đó hay trong hội thánh. Thí dụ như những người trẻ thường cởi mở hơn, thổ lộ nan đề cá nhân sau khi quen biết người hướng dẫn thanh niên trong dịp đi xem một trận thi đấu thể thao hay những buổi họp mặt thân mật nào khác. Lúc uống cà-phê chung hay trò chuyện trên đường về sau buổi nhóm, cũng thường là cơ hội thổ lộ nan đề mà sau đó có thể trở thành những buổi trao đổi tâm vấn chính thức. Có thể khéo léo tiếp tục câu chuyện bằng cách gợi ý như sau, “Sau 4 giờ chiều mai có thì giờ rộng rãi hơn, nếu mình trao đổi thêm chuyện này chắc sẽ rất hữu ích.” Gợi ý như thế vừa nhẹ nhàng vừa tự nhiên nhưng khá hữu hiệu để có buổi hẹn.
Thiết lập quan hệ. Lúc khởi đầu, hai điều rất quan trọng là làm cho người được tâm vấn thấy thoải mái và thiết lập quan hệ -một mối quan hệ nhẹ nhàng, tin cậy giữa cố vấn và người được tâm vấn. Khung cảnh tươi vui, yên tĩnh, không bị quấy rầy cộng thêm với một số đặc tính thích hợp của nhà tâm vấn như đã nêu lên trong chương 2, sẽ giúp cho mối tương giao xuất hiện với một khởi đầu tốt đẹp. Trong giai đoạn này, thông thường cũng sẽ nảy sinh một cảm nhận gọi là lượng định hỗ tương qua đó cả người cố vấn lẫn người được tâm vấn cùng để ý nhau rất kỹ để có những kết luận sơ khởi về mối quan hệ song phương. Nếu kết quả đánh giá này đưa đến những cảm nhận tích cực thì giai đoạn đầu tiên của mối quan hệ thực sự đã được thiết lập.
Đôi khi người cần tâm vấn thấy khó khăn đối diện với nan đề hay chia xẻ nan đề với cố vấn cho nên mở đầu thường chỉ bàn chuyện thời tiết hay những chủ đề vô thưởng vô phạt, trước khi đụng đến nan đề. Nhà tâm vấn cần biểu lộ tinh thần sẵn lòng “ở với” người cần tâm vấn để lắng nghe và đôi khi cần hỗ trợ, khích lệ đặc biệt là trong giai đoạn đầu của tiến trình tâm vấn để rồi dần dà người cần tâm vấn sẽ thổ lộ cho biết tại sao mình đến xin tâm vấn. Câu hỏi, “Tôi có thể giúp gì?” và thái độ quan tâm của nhà tâm vấn sẽ khích lệ người đó thổ lộ nan đề.
Làm sáng tỏ nan đề. Mới đầu chúng ta tưởng việc này khá dễ dàng, nghĩa là chỉ cần hỏi người có nhu cầu tâm vấn cho biết nan đề là gì rồi tìm giải pháp. Trong thực thế vấn đề thường không đơn giản như vậy. Đôi khi người ta rất ngại thổ lộ nan đề. Thường họ biết có điều gì đó làm họ bận tâm nhưng lại không xác định được. Có khi họ nêu ra nan đề nhưng về sau người cố vấn lại khám phá ra rằng vấn đề họ nói không phải là nan đề chính hay là nan đề duy nhất. Vì vậy công việc của bạn, nhà tâm vấn, là lắng nghe, quan sát, khích lệ và đôi khi góp ý hay nêu các câu hỏi ngắn để giúp làm sáng tỏ hình ảnh người đó: cá tính, nan đề, quan điểm về cuộc đời và những nỗ lực trong quá khứ của đương sự nhằm giải quyết nan đề. Những câu hỏi khai mở như thế cũng giúp người được tâm vấn cảm thấy thoải mái hơn, có cái nhìn vào nan đề rõ ràng hơn, và đôi khi có thể giải tỏa được những xúc cảm và bực dọc bị ức chế chưa được nói ra.
Trong giai đoạn này, nhà tâm vấn cũng có thể dò dẫm tìm hiểu những khía cạnh sau: Tôi có thể làm việc với người này không? Tôi có muốn thủ giúp không? Nan đề của người này có ngoài lãnh vực chuyên môn và ngoài khả năng của tôi không? Cùng lúc đó, người cần tâm vấn cũng có thể tự hỏi: Tôi có tin được nhà tâm vấn này không? Người cố vấn này có thể giúp được tôi không? Tôi có muốn cam kết tiếp tục tiến trình tâm vấn này không?
Có thể vào phần cuối của buổi gặp gỡ đầu tiên, những câu hỏi như trên có thể được nêu lên thảo luận, và nhà tâm vấn có thể nói đại khái như , “Tôi có thể giúp anh được, nhưng chúng ta cần phải có nhiều buổi trao đổi với nhau. Anh thấy sao?” Lọai thảo luận như thế gọi là sắp xếp tiến trình (structuring) để quyết định xem tiến trình tâm vấn có thể tiến hành không và nếu tiếp tục thì sẽ như thế nào.
Giai Đoạn Định Mục Tiêu (GĐ –2)
Nhiều thế kỷ trước, vua Đa-vít bày tỏ thái độ kinh ngạc về việc Đức Chúa Trời quan tâm thật sâu sắc cả đến ý tưởng và những lo lắng của những loài Ngài sáng tạo khi ông viết trong Thi 139:14, “Tôi ca ngợi Chúa, vì Chúa đã sáng tạo tôi cách đáng sợ lạ lùng.”
Hầu hết các nhà tâm vấn đều thấy ngay đối tượng của mình “ được tạo dựng rất đáng sợ lạ lùng,” với cá tính phức hợp và những lối suy tưởng nhiêu khê, phức tạp. Không một con người nào có khả năng hiểu hết về người khác mà chỉ với sự trợ giúp của Chúa, nhà tâm vấn mới có thể khởi sự hiểu được đối tượng, và cũng chỉ với sự trợ giúp từ trên cao nhà tâm vấn mới có thể giúp được người có nan đề.
Tuy nhiên điều quan trọng là chúng ta thực hành mục vụ tâm vấn trong tinh thần cầu nguyện và thái độ khiêm nhu. Cầu nguyện cho đối tượng và cho tiến trình tâm vấn trrước và sau mỗi buổi gặp mặt sẽ giúp ích rất nhiều. Cũng có nhiều nhà tâm vấn thường cầu nguyện thầm ngay trong giờ trao đổi.
Với sự trợ giúp của Chúa và sau khi đã cẩn thận lắng nghe và tìm hiểu, bạn có thể dần dần xác định được nan đề cần giải quyết. Đôi khi bạn có thể khám phá ngay nan đề sau vài phút trao đổi, nhưng cũng có lúc phải mất nhiều tuần bạn mới có thể biết đối tượng đang bị điều gì dằn vặt. Cũng có những tình huống nhà tâm vấn không hoàn toàn hiểu nan đề đã phát triển như thế nào, nhưng nếu bạn có thể hình dung khárõ nan đề là gì, bạn vẫn có thể giúp người cần tâm vấn đạt được giải pháp.
Những người mới bước vào lãnh vực tâm vấn thường lo lắng khi thấy mình không nhanh chóng tìm được cách giải quyết nan đề của đối tượng. Tâm trạng này phản ánh ý tưởng cho rằng nhà tâm vấn phải là người có câu trả lời và công tác tâm vấn giống như mối quan hệ giữa bác sĩ với bệnh nhân, qua đó bệnh nhân kê khai mọi triệu chứng và bác sĩ đưa ra phương thức trị liệu.
Trong lãnh vực tâm vấn, tiến trình không giống như thế, mà thông thường là người có nhu cầu mô tả chi tiết nan đề của mình rồi cả người đó và nhà tâm vấn cùng hợp lực tìm giải pháp. Vì khách quan, lại được trang bị, có nhiều kinh nghiệm và sáng suốt cho nên nhà tâm vấn có thể nghĩ đến những điều và những việc khả thi mà người có nan đề chưa bao giờ để tâm. Người cần tâm vấn có thể cũng phải nhìn thẳng vào những thái độ tội lỗi và chủ bại, là nguyên nhân gây ra nan đề. Cả hai cũng có thể thảo luận, tìm hiểu xem điều gì trong quá khứ đã gây ra nan đề và tìm phương giải quyết trong hiện tại. Có thể cũng cần phải xét cả những áp lực của hoàn cảnh như những khó khăn trong gia đình hay những bất ổn chính trị gây căng thẳng và làm nan đề trầm trọng hơn.
Khi cả nhà tâm vấn và đối tượng cùng hiểu rõ tình hình, thấy nan đề đã được đối phó như thế nào trong quá khứ – thành công hay chưa thành công, và rồi sẽ phải giải quyết như thế nào trong tương lai để được hữu hiệu hơn. Cả nhà tâm vấn và người được tâm vấn cần suy tìm những loại giải pháp khả thi và chọn mục tiêu cho việc giải quyết nan đề.
Mục tiêu mơ hồ thường không hữu ích cho quá trình tâm vấn. Nếu một cặp vợ chồng có nan đề hôn nhân và mục tiêu giải quyết là “để sống thuận thảo hơn,” thì không lâu họ sẽ thấy mục tiêu đó quá mơ hồ, không giúp họ tìm được phương hướng giải quyết. Tiến trình sẽ hữu hiệu hơn nếu tìm được những mục tiêu rõ ràng cụ thể. Thí dụ như họ quyết định mỗi ngày khen tặng nhau một lần hay cố gắng lắng nghe nhau trong năm phút. Đây có vẻ là những mục tiêu nhỏ nhoi, nhưng lại rất cụ thể, dễ thực hiện, cũng dễ thấy họ có đạt được hay không.
Một số nhà tâm vấn khích lệ người cần tâm vấn lập một bảng liệt kê những hành động có thể làm để thay đổi thái độ và tác phong. Ấn định cách thức và thời gian những mục tiêu này phải hoàn hành rồi xin Đức Chúa Trời giúp người đó thực hiện để đạt mục tiêu trong khoảng thời gian giữa các buổi họp tâm vấn.
Giai Đoạn Hành Động Theo Giải Pháp (GĐ-3)
Có bao giờ bạn từng quyết định sẽ thay đổi tác phong như thế nào đó nhưng rồi lại thấy mình không bao giờ khởi sự hành động đạt mục tiêu. Hầu hết chúng ta từng biết có những người ghiền thuốc lá quyết định bỏ, nhưng vẫn cứ tiếp tục hút nhiều năm sau rồi mới thực sự thôi.
Nhà tâm vấn cũng thường gặp những tình huống tương tự. Một người có nan đề đã thảo luận và quyết định nhiều giải pháp, nhưng cứ lần lữa, trì hoãn hành động. Đây không phải là điều khó hiểu. Nghĩ đến những ý hướng tốt rất dễ, nhưng quyết định hành động để đạt đến mục tiêu thường khó hơn nhiều. Vì vậy thách thức của nhà tâm vấn là làm sao khích lệ người đó hành động hoặc chấp nhận, giúp người đó cố gắng làm lại mỗi khi thất bại hay đề nghị biện pháp mới mỗi khi giải pháp cũ không kết quả và thường xuyên huớng dẫn trong quá trình người đó thực hành giải pháp.
Đôi khi có tình huống nhà tâm vấn thấy không thể thay đổi mà chỉ có thể chấp nhận hay thích ứng, thí dụ như trong trường hợp một phụ nữ chồng chết thì hiển nhiên bà không thể làm gì hơn là chấp nhận, nhưng nhà tâm vấn có thể giúp bà biết cách điều chỉnh để có thể sống trong cảnh goá bụa.
Qua tất cả những phương thức này, nhà tâm vấn Cơ đốc luôn luôn giữ mối quan tâm đối với sức khoẻ tâm linh của người có nan đề, đưa ra những hướng dẫn cho thấy trong cuộc sống rối ren nhiều khó khăn, ChúaCứu Thế có thể làm gì cứu giúp họ.
Như vậy, cả nhà tâm vấn và người được tâm vấn phải đi vào thực hành nhiều hơn là chỉ bàn suông về nan đề và giải pháp. Mỗi giải pháp cần phải được thực nghiệm và sau đó được người có nan đề đánh giá, tốt nhất là với sự trợ giúp của nhà tâm vấn. Nếu giải pháp không kết quả, cả hai cần xem xét lại nan đề, thảo luận thêm, tái đánh giá những suy nghĩ trước và thử nghiệm lại.
Giai Đoạn Kết Thúc (GĐ-4)
Khi nhà tâm vấn và người có nhu cầu đã biết rõ nan đề, đã thảo luận chi tiết, đã đưa ra được những mục tiêu có thể đạt tới và đã khởi sự tìm giải pháp thì đây cũng là lúc tiến trình tâm vấn phải kết thúc. Nếu quá trình vừa nêu lâu dài và tốt đẹp thì việc kết thúc có thể khó. Vì khó nói lời từ biệt cho nên nhà tâm vấn đôi khi cố tiếp tục tiến trình tâm vấn dù không còn cần thiết nữa. Vì vậy, khi thấy đã đến giai đoạn kết thúc, nhà tâm vấn có thể nói, “Tôi thấy chúng ta đã tiến đến giai đoạn anh/chị có thể tự giải quyết nan đề không cần tôi trợ giúp nữa.” Nói như vậy sẽ giúp người có nan đề hiểu rằng tiến trình tâm vấn sắp xong. Đôi khi cũng cần phải bàn thảo nếu việc kết thúc tiến trình này gặp khó khăn. Dù sao người có nan đề cần biết rằng “cánh cửa luôn luôn rộng mở” nếu người đó thấy việc tiếp xúc với nhà tâm vấn giúp ích cho mình. Cũng cần thảo luận để người có nan đề biết cách tự giải quyết với sự trợ giúp tối thiểu từ bên ngoài. Mục tiêu chính của tương quan tâm vấn là giúp người có nan đề đối phó hữu hiệu hơn với những khó khăn trong đời sống, vì vậy kết thúc một tiến trình tâm vấn không phải là đã xong. Kết thúc tiến trình tâm vấn chỉ là thời đìểm để người có nan đề khởi sự bước vào giai đoạn mới trong cuộc sống, trong đó những khó khăn được đối phó hữu hiệu hơn với sự trợ giúp từ Chúa.
Nhiều tuần sau khi kết thúc mục vụ tâm vấn, bạn có thể tiếp xúc với người được tâm vấn để biết tình trạng ra sao. Việc tiếp xúc này nói lên mối quan tâm chân thật sẽ giúp bạn đánh giá kết quả công tác tâm vấn của mình, cũng cho người đó cơ hội chia xẻ những diễn tiến mới trong đời sống hay nêu những thắc mắc nào xuất hiện sau khi tiến trình tâm vấn kết thúc. Mục tiêu ở đây không phải là khơi sâu tinh thần tùy thuộc hay dụ khách trở lại dịch vụ tâm vấn, nhưng chỉ là để bày tỏ tinh thần tiếp tục chăm sóc và quan tâm đến những người đã từng đến với mình.
Trong sách vở, những điều này xem ra đơn giản, dễ dàng, nhưng áp dụng trong thực hành khó hơn nhiều. Cần nhớ rằng nhà tâm vấn không một mình chịu hoàn toàn trách nhiệm về nan đề của người có nhu cầu, vì tâm vấn liên quan đến ít nhất hai người, cùng nhau cộng tác để giải quyết nan đề.
Cũng cần nhớ rằng những giai đoạn tâm vấn không luôn luôn theo trình tự. Thí dụ như việc xây dựng, củng cố quan hệ (establish rapport) trong tiến trình tâm vấn rất quan trọng không chỉ là vào lúc khởi đầu. Thường có tình trạng giao thoa giữa giai đoạn đặt mục tiêu (GĐ- 2) và giai đoạn hành động theo giải pháp (GĐ- 3).
Cuối cùng, cần phải nhận thức rằng tất cả các nan đề không nhất thiết được xử lý giống nhau. Một goá phụ bị tổn thương vì đau khổ, cần một loại tâm vấn khác hơn một thiếu niên bực dọc vì chương trình sinh hoạt thanh niên trong hội thánh tẻ nhạt. Vì vậy, người lãnh đạo Cơ-đốc cần hiểu những thể loại tâm vấn khác nhau, và đó là nội dung của chương sau.
Câu Hỏi Ôn Và Thảo Luận Chương 4: Tiến Trình Tâm Vấn Cơ Đốc
1. Thánh Phao-lô đề cập đến ba điều nào các nhà tâm vấn và được tâm vấn lưu tâm?
2. Khi trao đổi với nhà tâm vấn, người được tâm vấn có những quan ngại nào? Tại sao?
3. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, người được tâm vấn thường đối diện với những trở ngại nào? Tại sao bày tỏ cảm xúc là một thách thức?
4. Thánh Phao-lô nêu ra những phương cách nào giúp vượt qua những cảm xúc lo lắng tiêu cực?
5. Tại sao nhà tâm vấn phải ý thức được những cảm xúc của người được tâm vấn?
6. Bạn nhận xét thế nào về câu nói “Hầu hết nan đề của con người khởi sự từ tâm trí và hầu hết cũng giải quyết từ tâm trí”? Kinh Thánh dạy về điều này như thế nào?
7. Công việc chính của nhà tâm vấn là tìm tội lỗi trong đời sống người được tâm vấn và thay đổi hành vi của họ. Bạn đồng ý với câu nói trên không? Tại sao?
8. Làm thế nào để trở thành một nhà tâm vấn hữu hiệu, nhạy bén với người khác khi quan tâm đến tình cảm, suy nghĩ và hành động của họ?
Gần đây vị mục sư của một hội thánh lớn phải đương đầu vơi một trường hợp bi thảm khi người đặc trách ca đoàn treo cổ tự vẫn. Cô đang ở độ tuổi ba mươi, có gia đình và chồng là một chấp sự trong hội thánh. Cô cũng là một giáo viên trường Chúa nhật được học viên yêu mến. Mọi người kính trọng và quí mến vì cô sống dấn thân và có đức tin trưởng thành trong Chúa. Cái chết bất ngờ của cô là một cú sốc khiến mọi người trong hội thánh bàng hoàng.
Giả như việc này xảy ra trong hội thánh, là mục sư bạn sẽ nói gì với với hội chúng? Bạn sẽ giúp đỡ người chồng như thế nào? Bạn sẽ làm gì nếu có một thanh niên cũng có ý định tự tử đến với bạn?
Những câu hỏi nay dẫn chúng ta đến đề tài nói về các phương pháp tâm vấn. Trong chương sau, chúng ta sẽ bàn về vấn đề tự tử, nhưng ở chương này, chúng ta sẽ xem thử nhà tâm vấn phải nói gì khi có người đến xin giúp đỡ.
Nếu có thể đọc các sách vở viết về đề tài này bạn sẽ thấy có hàng nghìn phương pháp khác nhau. Tuy nhiên bạn không cần phải biết tất cả những phương pháp đó rồi sau mới có thể giúp người khác được! Một số những phương pháp căn bản và hữu hiệu nhất có trong Kinh Thánh. Chúng ta khởi sự với một thí dụ trong Cựu ước rồi sang Tân ước xem Chúa Giê-xu tư vấn như thế nào.
Thí Dụ về Gióp
Sách Gióp mô tả những tranh chiến của một người phải đối diện với nhiều nan đề cá nhân. Ngay trong câu đầu, Gióp được mô tả là một người hoàn toàn, một người công chính, kính sợ Chúa và lánh xa điều ác. Ông cũng là một người giàu có, đông con cái, là một người danh giá và được tôn kính.
Nhưng rồi một loạt tai họa liên tiếp đổ xuống đời Gióp. Ông mất tất cả tài sản, con cháu chết hết trong cơn bão. Hai vợ chồng lục đục và ông mất cả sức khoẻ lẫn địa vị. Nếu trong những hoàn cảnh đó Gióp xuống tinh thần, giận dữ, tra hỏi về những lý do phải chịu thống khổ thì đó có phải là điều đáng ngạc nhiên không?
Lúc đó có ba nhà tâm vấn đến giúp Gióp nhưng không thành công. Một người thứ tư tên là Ê-li-hu xuất hiện (Giop 23:1-17). Anh do dự không dám nói vì thấy mình nhỏ tuổi hơn những người kia, nhưng cuối cùng anh cũng lên tiếng. Ê-li-hu đã giúp được gì?
Ê-li-hu lắng nghe (Giop 32:11). Nghe là một trong những kỹ thuật tâm vấn quan trọng nhất nhưng thường bị quên lãng.
Các nhà tâm vấn đôi khi nghĩ rằng mình phải đưa ra những lời khuyên uyên bác, trưng dẫn Kinh Thánh, hay đặt những câu hỏi cao siêu. Tuy nhiên những điều này có thể cản trở tiến trình tâm vấn, nhất là khi sử dụng ngay từ đầu khi chúng ta chưa biết rõ hay nắm chắc nan đề của người cần được tâm vấn.
Nhà thần học người Đức Dietrich Bonhoeffer có lần viết rằng nhiều người đang tìm “tai biết lắng nghe.” Thông thường người ta không tìm thấy trong vòng Cơ-đốc nhân vì khuynh hướng chung là quá muốn nói hơn muốn nghe. Ông gợi ý rằng “Người không thể kiên nhẫn lắng nghe chắc chắn sẽ nói chuyện ngoài lề.” Những người như thế không giúp được nhiều.
Khi chúng ta lắng nghe, như Ê-li-hu nghe Gióp, người được tâm vấn có cơ hội diễn đạt xúc cảm của mình. Điều này thường giúp đương sự cảm thấy khá hơn và đôi khi cũng nhờ đó có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin giá trị giúp ích cho tiến trình tâm vấn.
Cẩn thận lắng nghe đòi hỏi phải tập trung chú ý. Chúng ta dễ lơ đãng trong lúc người được tâm vấn thổ lộ tâm sự. Đúng ra chúng ta phải nghe thật cẩn thận nhưng không được biểu lộ thái độ kinh ngạc. Một nụ cười, thỉnh thoảng gật đầu, hay hỏi một câu thông thường như, “Rồi sau đó ra sao?” hay “Anh/chị cảm thấy thế nào về việc đó?” có thể giúp đối tượng tiếp tục kể lại nan đề của mình một cách tự nhiên.
Ê-li-hu hiểu (Giop 32:12). Trước khi gặp Ê-li-hu chắc hẳn Gióp rất bực dọc khi nói về những nan đề của mình vì dường như không có ai chịu hiểu cho ông. Tuy nhiên, với Ê-li-hu, sự việc đã thay đổi. Ê-li-hu hiểu rằng chưa ai thực sự trả lời được những vấn nạn của Gióp.
Một câu châm ngôn cổ của người da đỏ bảo rằng bạn không thể thực sự hiểu một người nếu bạn chưa đi một dặm đường bằng đôi giày của anh ta. Nếu bạn thực sự muốn hiểu người khác, cố tưởng tượng xem vấn đề đó trong cái nhìn của anh ta sẽ như thế nào. Cố thử tưởng tượng xem bạn sẽ tâm vấn thế nào cho viên chấp sự có người vợ tự sát. Để thực sự hiểu một người, bạn cần tự hỏi, “Tôi sẽ cảm thấy thế nào nếu người bạn đời của tôi tự tử?” Khi cố nhìn nan đề trong quan điểm của người được tư vấn, lúc bấy giờ bạn mới khởi sự hiểu. Đây là một phần quan trọng của tiến trình giúp đỡ.
Ê-li-hu trấn an (Giop 33:6-7). Ê-li-hu bảo, “Tôi cũng như ông. Tôi là người và cũng có nhiều nan đề. Tôi không đến làm ông sợ.”
Nhiều người do dự không dám thổ lộ nan đề cho nhà tâm vấn. Họ xấu hổ vì mình có chuyện buồn và cũng xấu hổ vì không thể tự giải quyết mà phải nhờ giúp đỡ. Nếu có lỗi hay phạm tội, đương sự có thể sợ bị nhà tâm vấn giận, chỉ trích hay phê phán. Vì thế, điều quan trọng là nên trấn an người cần tâm vấn rằng dù có nan đề hay phạm tội người đó vẫn được yêu quí và chấp nhận. Nhớ rằng Chúa Giê-xu đến trần gian vì yêu chúng ta dù tất cả chúng ta đều là tội nhân (Ro 5:8).
Ê-li-hu nói thẳng (Giop 33:12). Nói thẳng là chỉ ra những lỗi phạm, thất bại, hiểu lầm hay những thái độ tai hại của người cần tâm vấn. Trách nhiệm của nhà tâm vấn không phải là phán xét, lên án, hay gieo mặc cảm phạm tội, nhưng là chỉ ra những điều người cần tâm vấn không thấy hay không muốn thấy.
Có một bà đến với nhà tâm vấn than cô đơn bảo rằng không có ai gần, cũng không có ai muốn đến với bà. Nhà tâm vấn nhanh chóng tìm ra lý do không khó khăn gì: bà nói quá nhiều, nói liên tục về mình và về mọi nan đề riêng cho nên ai cũng chán và tìm cách xa lánh. Nhà tâm vấn ôn tồn nói thẳng với bà sự kiện trên và cho biết thái độ chỉ nghĩ đến mình và nói chuyện riêng của mình nhiều quá làm cho người khác chán không muốn đến gần. Bà này mới đầu không muốn nghe nhưng rồi cũng thay đổi và chỉ ít lâu sau, bà có thêm bạn bè rất đông, không còn thấy cô đơn nữa!
Khi nói thẳng với ai, bạn nên nói nhẹ nhàng, ôn tồn, chỉ ra những sự kiện bạn thấy rồi để cho người được tâm vấn có thì giờ trả lời. Ê-li-hu đã làm điều này, nói với Gióp rằng, “Lối suy nghĩ của ông không đúng. Ông quên rằng Đức Chúa Trời lớn hơn loài người. Thái độ của ông khiến cho ông gặp khó khăn.” Ê-li-hu không giảng nhưng nêu các sự kiện, rồi bảo Gióp trả lời những sự kiện đó (33:32). Ê-li-hu đàm luận với Gióp và cho Gióp cơ hội trả lời.
Ê-li-hu dạy (Giop 33:33). Đôi khi đây là phần quan trọng của tiến trình tâm vấn – chia xẻ những chân lý người được tâm vấn cần nghe.
Có nhiều cách dạy. Đôi khi chúng ta cung cấp các thông tin lúc trò chuyện. Có khi chúng ta đề nghị những điều người được tâm vấn cần thay đổi và thông thường chúng ta dạy bằng gương mẫu của chúng ta.
Có bao giờ bạn thấy gương mẫu của bạn có thể là một trong những phương cách mạnh mẽ nhất để dạy người khác không? Phao-lô biết tín hữu nhìn ông như một mẫu mực nên ông bảo họ, “hãy bắt chước tôi cũng như chính mình tôi bắt chước Chúa Cứu Thế vậy” (ICo 11:1). Là nhà tâm vấn, bạn cần ý thức rằng hành động của bạn cũng có tác dụng mạnh mẽ như những gì bạn nói.
Điều này đưa chúng ta đến phương pháp tâm vấn cuối cùng của Ê-li-hu.
Ê-li-hu chỉ hướng Gióp về Đức Chúa Trời. Khởi đầu từ chương 34, Ê-li-hu trình bày về Đức Chúa Trời và kêu gọi Gióp vâng lời Ngài. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý rằng việc này chỉ thực hiện vào giai đoạn cuối, sau khi Ê-li-hu đã lắng nghe và củng cố được tình bạn với Gióp.
Trong chương 1 chúng ta đã nói về đại mạng lệnh (Mat 28:18-20) và xác định rằng đào tạo môn đệ là mục tiêu của mọi Cơ-đốc nhân, bao gồm cả những nhà tâm vấn Cơ-đốc. Chúng ta cần tôn trọng những người cần tâm vấn và đừng áp đặt tin lành cho họ; tuy nhiên, chúng ta cũng phải hướng về việc nói cho họ biết về Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Kinh Thánh mô tả là “Nhà TâmVấn Lạ Lùng” (Đấng Mưu Luận Lạ Lùng – Es 9:6). Ngài là Đấng tối thượng ban bình an, ổn định và giải pháp cho mọi nan đề của chúng ta. Ngài cũng là Đấng có thể dạy chúng ta các phương pháp tâm vấn.
Phúc âm Lu 24:1-53 ghi lại câu chuyện quen thuộc Chúa Giê-xu đàm luận với hai môn đồ trên đường về Em-ma-út. Hôm đó là vào ngày đầu Phục sinh. Chúa Giê-xu mới từ kẻ chết sống lại, nhưng hai khách bộ hành kia hoang mang, bối rối về sự kiện lạ lùng xảy ra vào buổi sáng. Đang khi họ vừa đi vừa bàn luận, Chúa Giê-xu tiến đến cùng đi và khuyên giải trong lúc họ đang mang nặng tâm trạng buồn lo. Chúng ta lưu ý những điều Chúa làm.
Chúa Giê-xu đến bên họ và cùng đi với họ (Lu 24:15). Tâm vấn có thể tiến hành ở bất cứ chỗ nào: trong văn phòng, ở nhà, bệnh viện, nhà thờ, tiệm ăn hay ngay cả ngoài đường như trong bài mẫu của Chúa Giê-xu.
Bạn có thấy việc hai người này không nhận ra Chúa Giê-xu là ai là một điều quan trọng không (24:26)? Bạn có thấy khả dĩ có đôi lần Ngài hành động qua bạn hay tôi nhưng chúng ta không luôn luôn nhận ra sự hiện diện của Ngài? Nhà tâm vấn cần đi thật gần Chúa, cần giữ mối liên lạc mật thiết với Chúa, sẵn sàng làm công cụ cho Chúa để đụng đến đời sống của những người cần giúp đỡ.
Chúa Giê-xu hỏi (Lu 24:17,19). Những nhà tâm vấn mới thường phạm vào lỗi hỏi quá nhiều. Điều này có thể khiến người được tâm vấn đi đến hai kết luận: Thứ nhất, đương sự có thể cho rằng được tâm vấn chỉ đơn giản là trả lời các câu hỏi. Thứ hai là nghĩ rằng sau khi đã hỏi hết, nhà tâm vấn sẽ chẩn đoán và đưa ra giải pháp. Điều này hiếm khi xảy ra mà trái lại, đôi khi vì quá bận nghĩ thêm câu hỏi, nhà tâm vấn đã không chú ý nghe câu trả lời của người được tâm vấn.
Để tránh lỗi này, nhà tâm vấn nên hỏi thận trọng và hỏi ít. Có hai loại câu hỏi.
Thứ nhất là những câu hỏi “đóng.” Với những câu hỏi như, “Ông tên gì?” “Ông lập gia đình chưa?” “Ông có con cái không?” “Ông có thấy buồn không?” người được tâm vấn chỉ cần trả lời rất vắn tắt.
Những “câu hỏi đóng” giúp chúng ta có những thông tin đặc biệt, nhưng không khích lệ người có nhu cầu nói thêm về nan đề của mình. Vì vậy, các nhà tâm vấn hay dùng loại câu hỏi thứ hai và đó là những câu hỏi “mở” Đối với loại câu hỏi này rất ít khi có thể trả lời vắn tắt được. Chúng kích thích người được tâm vấn dốc đổ tâm sự và cho nhà tâm vấn có cơ hội lắng nghe. Chúng ta có thể hỏi những câu như, “Anh/chị quan tâm, lo lắng đến điều gì?” Chuyện gì làm anh/chị buồn?” “Bảo rằng hôn nhân không hạnh phúc anh/chị muốn nói đến khía cạnh nào?” “Anh/chị có thể cho biết điều gì làm anh chị nản lòng không?”
Tên đường đến làng Em-ma-út, hai môn đồ hỏi Chúa Giê-xu có biết “những việc mới xảy ra không.” Chúa trả lời, “Việc gì vậy?” (Lu 24:19). Đó là một câu hỏi mở để các môn đồ nói thêm về nỗi lo lắng của họ.
Chúa Giê-xu lắng nghe. Kinh thánh không minh thị nói đến điều này, nhưng hàm ý Chúa Giê-xu nói ít trong suốt quãng đường từ Giê-ru-sa-lem.
Như chúng ta đã thấy, cẩn thận lắng nghe đòi hỏi phải tập trung chú ý. Một nhà tâm vấn giỏi có thể biết được rất nhiều khi để ý đến âm điệu của giọng nói, lúc người được tâm vấn thay đổi cao độ hay âm lượng (có thể chỉ thị tâm trạng bối rối), hay đổi đề tài câu chuyện. Khóc hay rơm rớm nước mắt, thở ra, đổi tư thế ngồi, hay thay đổi nhịp thở cũng đều có thể là những dấu chỉ cho biết đương sự đang đối phó với những vấn đề xúc cảm quan trọng. Cần luôn luôn thầm hỏi xem người được tâm vấn đang muốn truyền đạt điều gì qua điệu bộ, cử chỉ và những tín hiệu không lời trên. Lưu ý trong Lu 24:17, hai môn đồ đi về làng Em-ma-út có dáng vẻ buồn bã. Một nhà tâm vấn bén nhạy sẽ để ý đến điều này.
Đến đây, có thể bạn sẽ tự hỏi tại sao lại cần lắng nghe và quan sát kỹ lưỡng như vậy? Tại sao không hỏi thẳng xem đương sự đang có vấn đề gì rồi tìm giải pháp? Nếu đương sự biết đích xác nan đề của mình hay nếu người đó sẵn sàng và có thể diễn đạt rõ ràng được thì đó là trường hợp lý tưởng. Trong thực tế điều này không luôn luôn xảy ra cho nên nhà tâm vấn và người được tâm vấn phải cùng làm việc với nhau để có thể tìm ra nguyên nhân chính của nan đề. Khi nan đề chưa rõ ràng, nhà tâm vấn thường phải tìm ra những thông tin cần yếu bằng cách cẩn thận quan sát và lắng nghe lúc người được tâm vấn trình bày.
Có bao giờ bạn nghĩ rằng Chúa Giê-xu đâu cần phải lắng nghe mới biết không? Tất nhiên là Chúa quán thông mọi sự và Đức Chúa Trời là Cha bày tỏ cho Ngài những điều vượt quá khả năng hiểu biết của con người bình thường. Có thể Chúa đã biết mọi nỗi buồn phiền của hai môn đồ này nhưng Ngài vẫn cứ nghe, vì Ngài biết rằng việc người có nan đề phải tự nói ra rất quan trọng, quan trọng y như nhà tâm vấn phải lắng nghe vậy.
Chúa Giê-xu chấp nhận. Đây cũng là điều hàm ngụ trong phân đoạn Kinh thánh trên. Chúa Giê-xu biết họ đã có những kết luận không đúng về các sự kiện xảy ra nhưng Ngài không lên án họ. Chúa chấp họ là những người đáng quí dù họ có những ý tưởng sai lạc. Là những người tin theo Chúa Cứu Thế, chúng ta có trách nhiệm chấp nhận tội nhân, dù không thể chấp nhận hay dung dưỡng tội lỗi và những điều sai lạc.
Chúa Giê-xu nói thẳng (Lu 24:25-26). Giống như Ê-li-hu nói thẳng với Gióp, Chúa Giê-xu cũng cho hai môn đồ kia biết rằng họ đã có những kết luận dại dột. Họ không hiểu những điều Kinh Thánh đã dạy rất minh bạch và Chúa chỉ cho họ thấy những suy nghĩ sai lạc đã làm cho chính họ bối rối như thế nào.
Nói thẳng không phải là cách đáp ứng duy nhất của nhà tâm vấn. Phương pháp đáp ứng am hiểu (understanding responses) được dùng khi nhà tâm vấn muốn chuyển đạt sự đồng cảm, với tín hiệu bảo rằng mình hiểu và cảm thông. Đáp ứng dọ dẫm (probing responses) khi nhà tâm vấn cần biết thêm thông tin hay khi muốn gợi chuyện để trao đổi chi tiết hơn. Bằng cách nói lên những nhận xét có tính cách hỗ trợ (supportive comments), nhà tâm vấn cố gắng trấn an hay khích lệ người được tâm vấn. Đáp ứng diễn giải (interpretive responses) là có ý dạy cho người được tâm vấn hiểu những việc đang xảy ra, trong khi những đáp ứng đánh giá (evaluative responses) chỉ thị điều nhà tâm vấn nghĩ về sự thiện, sự công chính hay khôn ngoan của một ý tưởng hay hành động nào đó. Đáp ứng hành động (action responses) là cách nhà tâm vấn cố gắng gợi ý hay khích lệ người được tâm vấn tham dự vào một loại hành động nào đó. Bảng 3.1 nêu lên một số thí dụ cho mỗi loại đáp ứng này.
Chúa Giê-xu dạy (Lu 24:27) Các môn đồ trên đường đến làng Em-ma-út cần phải thay đổi một số suy nghĩ về những vấn đề tâm linh và Chúa đã dạy họ. Như chúng ta đã thấy, dạy cũng là một phần quan trọng trong quá trình tâm vấn.
Tuy nhiên đôi khi chúng ta thấy có những người ở trong tình trạng quá buồn lo bối rối không thể hiểu hay không thể áp dụng được những nguyên tắc thuộc linh được truyền đạt. Những người này cần được cầu nguyện, cần sự an ủi của Đức Thánh Linh, cần kinh nghiệm tình thương trong Chúa trước khi có thể khởi sự nắm được các chân lý Kinh Thánh.
Hai điểm yếu lớn nhất của các nhà tâm vấn Cơ đốc là sử dụng quá ít hoặc quá nhiều các tài nguyên thuộc linh. Có nhà tâm vấn không bao giờ cầu nguyện với người cần tâm vấn và không bao giờ trưng dẫn Kinh Thánh. Trái lại, có nhà tâm vấn lại cho rằng mỗi lần tâm vấn chỉ cần đọc một đoạn Kinh Thánh và cầu nguyện là đủ. Đôi khi chỉ như thế là đủ, nhưng cũng có nhiều trường hợp, phương cách đó hoàn toàn thất bại, đặc biệt đối với những người không thấy tình hình khá hơn hay không muốn vâng theo lời Kinh Thánh. Các nhà tâm vấn cũng cần tránh tạo ấn tượng rằng đọc Kinh Thánh hay cầu nguyện có tác dụng như bùa phép có thể bất ngờ giải quyết được vấn đề.
Không có nguyên tắc cố định bảo người được tâm vấn khi nào thì cầu nguyện hay đọc Kinh Thánh nhưng Đức thánh Linh là Đấng hướng dẫn họ. Nhiều nhà tâm vấn cơ đốc cầu nguyện trước và sau các buổi tâm vấn, đôi khi cầu nguyện vào những lúc khác. Khi thấy cần hoặc vào thời điểm thích hợp, nhà tâm vấn có thể cũng muốn đọc một phân đoạn Kinh Thánh. Bảng 3. 2 liệt kê một số các câu Kinh Thánh hữu dụng.
Cần khuyến khích người được tâm vấn giữ giờ tĩnh nguyện, đọc Kinh Thánh, suy gẫm và cầu nguyện mỗi ngày. Cũng nên đề nghị đọc một tài liệu dưỡng linh nào đó và nếu phù hợp với tập quán giáo hội, nhà tâm vấn có thể cử hành và cùng dự tiệc thánh với người được tâm vấn.
Phạm vi sử dụng các phương tiện thuộc linh như trên tùy thuộc nhà tâm vấn, tùy thuộc người được tâm vấn và cả nan đề đối phó. Nhà tâm vấn Cơ-đốc không bao giờ cầu nguyện riêng sẽ thấy rất ngại ngùng khi phải cầu nguyện trong buổi tâm vấn. Nhà tâm vấn Cơ-đốc cũng cần thông suốt và hiểu rõ Lời Đức Chúa Trời (IITi 3:15), nếu không sẽ khó thành công trong việc vận dụng Lời Chúa trong quá trình tâm vấn.
Đối với một số người được tâm vấn, cầu nguyện và đọc Kinh thánh góp phần thêm sức và nâng đỡ tinh thần. Trong khi đó, đối với một số người khác, việc này làm họ mất tự nhiên và không thoải mái. Việc thực hành các tập quán văn hoá cũng là khía cạnh nhà tâm vấn cần lưu tâm, cần suy xét thận trọng để biết khi nào nên áp dụng và áp dụng như thế nào cho phù hợp.
Tóm lại, phương tiện sử dụng trong các buổi tâm vấn tùy thuộc nan đề của người được tâm vấn. Một goá phụ đang đau buồn có thể được an ủi rất nhiều qua các phương thức tâm vấn thuộc linh, trong khi đó một sinh viên học lực kém cần được một lời cầu thay ngắn, thì giờ còn lại dành để tìm hiểu, bàn thảo liên quan đến thói quen học hành.
Trên hết, cần nhớ rằng, là một nhà tâm vấn Cơ-đốc, bạn khác với những người không tin. Thí dụ như Cơ-đốc nhân có những nhận định khác về người và về vũ trụ, tin rằng Đức Chúa Trời hằng sống, Ngài quan tâm đến từng cá nhân, chú ý đến những lời cầu nguyện của chúng ta và chịu trách nhiệm bảo tồn vũ trụ bằng quyền năng Ngài (He 1:1-3). Cơ-đốc nhân tin rằng chỉ có thể tìm được niềm vui và bình an sâu lắng nhất khi một người đặt lòng tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Trong khi đó, nhà tâm vấn Cơ-đốc được coi là công cụ, qua đó Đức Thánh Linh có thể sử dụng để đem lại sự chữa lành tâm trí.
Chúa Giê-xu dám can dự . Sau hành trình khá dài đến làng Em-ma-út, hai môn đồ mời Chúa Giê-xu nghỉ lại với họ và Chúa đã nhận lời.
Từ ngữ “dám can dự” có làm bạn ngạc nhiên không? Khi can dự vào đời sống những người cần tâm vấn đôi khi chúng ta sẽ thấy mình phải hao tổn năng lực và thì giờ. Can dự sâu xa vào đời sống những ngưới có nhu cầu không phải việc dễ dàng, vì rất có thể sẽ bị lôi cuốn vào những hoàn cảnh khó xử, nhưng Chúa Giê-xu sẵn sàng chấp nhận, và lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ.
Phần ký thuật trong Kinh Thánh cho chúng ta biết cả ba cùng ngồi dùng bữa và Chúa Giê-xu bẻ bánh. Đúng lúc đó hai môn đồ nhận ra Chúa Giê-xu, rồi diễn tiếp kế tiếp là gì? Ngài biến mất! Như vậy sự việc này có phải là một phần của công tác tâm vấn không? Là người, chúng ta không thể biến mất như Chúa Giê-xu, nhưng chúng ta có thể làm điều có ý nghĩa tương tự như việc Chúa làm cho hai môn đồ kia.
Chúa Giê-xu khích lệ tinh thần tự lập (Lu 24:31). Hai môn đồ không còn phải dựa vào nhà tâm vấn nữa và họ có thể quyết định hành động theo điều họ vừa học. Tức khắc họ đứng dậy trở về Giê-ru-sa-lem, đến với các anh chị em cơ đốc nhân khác và chia xẻ với họ những gì mới xảy ra.
Cách thức Chúa Giê-xu làm tâm vấn cho những môn đồ này không phải cách duy nhất, vì Ngài từng dùng những phương pháp khác. Như đã thấy trong chương 1, Chúa Giê-xu đã giúp Ni-cơ-đem qua một cuộc đàm luận tri thức và thần học. Với phụ nữ Sa-ma-ri bên giếng, Chúa dùng dụ ngôn và luân lý. Với người phụ nữ bị bắt vì tội ngoại tình, Chúa tha thứ nhưng căn dặn không được phạm tội nữa. Với trẻ em, Chúa bày tỏ lòng thương mến dịu dàng.
Có lẽ Chúa Giê-xu đã dùng phương cách tâm vấn khác nhau với mỗi người Ngài gặp. Chúa biết mỗi người đều khác nhau, mỗi người có những đáp ứng khác nhau. Không có các qui luật hay danh sách các phương pháp tâm vấn nào cùng có thể áp dụng hữu hiệu như nhau cho mọi người hay mọi nhóm văn hóa.
Tuy nhiên, không phải vì mọi người khác nhau như thế mà chúng ta nản lòng. Nhà tâm vấn Cơ-đốc rất cần bén nhạy với từng con dân Chúa, tin cậy Đức Thánh Linh sẽ chỉ cho chúng ta biết cách đáp ứng những nhu cầu riêng biệt của người đến với chúng ta để được giúp đỡ.
Vị mục sư chúng ta đề cập ở đầu chương biết rõ điều này. Với sự giúp sức từ Chúa, ông có thể có những đáp ứng khác nhau, cho người chồng có vợ tự tử, cho hội thánh đang xôn xao vì biến cố này, và cho người thanh niên đang có tư tưởng quyên sinh.
Đức Chúa Trời cũng có thể giúp bạn trong công tác tâm vấn và hy vọng những phương pháp trình bày trong chương này sẽ giúp bạn đến với những người có nhu cầu đang sinh hoạt trong hội thánh hay trong cộng đồng của bạn.
Những Loại Câu Trả Lời Trong Buổi Tâm Vấn
Hiểu Tôi biết anh/chị thấy rất khó chấp nhận
Hay nói cách khác, anh/chị thấy…
Từ nãy đến giờ, anh/chị đã nói…
Vâng, đây là những kinh nghiệm rất buồn.
Thăm dò Xin anh/chị nói thêm về việc này
Lúc đó bà ấy phản ứng thế nào?
Rồi có chuyện gì xảy ra lúc đó?
Tôi chưa nắm vững lắm điều anh/chị vừa nói
Hỗ trợ Nhiều người cũng nghĩ như vậy
Đó chính là điều Đức Chúa Trời quan tâm
Mọi chuyện sẽ tốt hơn nếu…
Tôi tin là họ sẽ hiểu khi anh/chị…
Giải thích Sự việc lúc đó có vẻ như…
Chuyện này làm cho anh/chị cảm thấy mình có lỗi
Anh/chị quá tuỳ thuộc vào…
Có phải là anh/chị muốn nói rằng…
Đánh giá Quyết định như vậy là khôn ngoan
Đó là một ý hay
Kinh thánh coi điều đó là tội
Làm như vậy khó có kết quả
Tôi nghĩ anh/chị nên làm một việc khác
Hành động Tôi khuyên anh/chị nên…
Sao anh/chị không thử làm….
Từ nay cho đến buổi kế tiếp vào tuần tới anh/chị nên …
Bảng 3.2
Những Câu Kinh Thánh Hữu Ích Dùng Cho Công Tác Tâm Vấn
Nhu cầu hay nan đề Kinh thánh tham chiếu
Tham khảo kinh thánh
Sự lo lắng
Tức giận
An ủi; Can đảm ; Sự chết; Trầm cảm
Sự nản lòng; Sự nghi ngờ; Sự ganh tỵ
Sự tin cậy; Sự sợ hải; Tha tội; Tha thứ
Đau buồn mất mát; Hướng dẫn;Căm ghét; Cảm giác vô phương
Cô đơn; Nhu cầu; Kiên nhẫn; Bình an; Ca ngợi; Sự thử thách; Sự cứu rỗi
Đau yếu; Tội lỗi; Tăng trưởng; Sự cám dỗ; Buồn; Yếu đuối; Khôn ngoan
Thi 43:5 46:1-2,9-10 Ch 3:5-6 12:25 17:22 Mat 6:25-26,31-32,34 Phi 4:6-7,19 IPhi 5:6-7.
Thi 37:8 Ch 12:16 14:17,29 15:l,18 25:28 Eph 4:26 Co 3:8 Gia 1:19-20.
Thi 23:4 Ca 3:22-23 Mat 5:4 11:28-30 Gi 14:16,18 Ro 8:28 IICo 1:3-4 IITe 2:16-17.
Gios 1:7-9 Thi 27:3 31:24 Ch 3:26 14:26 Mat 28:20 IICo 5:6 Eph 3:11-17 Phi 4:13 IITi 1:8-9.
Thi 23:4 116:15 Gi 14:1-6 Ro 14:8 ITe 5:9-10 IITi 4:7-8 Kh 21:4.
Thi 32:3-4 34:18-21 42:11 Dan 11:14-15 IVua 19:1-5 IICo 4:8-9 Phi 4:4-7.
Gios 1:9 Thi 27:14 34:7-8,17-19 43:5 55:22 Mat 11:28-30 Gi 14:1,27 16:33 IICo 4:8-9 He 4:16
Thi 37:5 Ch 3:5-6 Mat 21:21-22 Gi 7:17 20:24-30 Gia 1:6 He 11:6.
Thi 37:1-7 Ch 3:31 23:17 Ro 13:13 ICo 13:4 ITi 6:4-5 Co 5:26
Lu 17:6 Ro 4:3 10:17 IICo 2:5,7 Eph 2:8-9 ITe 3:7-8 He 11:6,29-30 Gia 1:3.
Le 26:12 Thi 27:1,8,14 42:5 46:1 56:3 Es 43:1 51:12 Gi 14:27 Ro 8:31 IGi 4:18
Thi 32:1,5 51:1-19 Ch 28:13 Es 1:18 55:7 IGi 1:9 Co 1:13-14 Gia 5:15-16.
Mat 5:44 6:14-15 18:21-22 Mac 11:25 Lu 17:3-4 Eph 4:31-32 Ga 6:1 Co 3:13.
Thi 23:4 Mat 5:4 11:28-30 Gi 14:16,18 16:22 Phi 1:21 ITe 4:13 IITe 2:16-17 Kh 21:4.
Thi 32:8 139:23-24 Ch 3:5-6 16:9 20:18 Es 48:17 Gi 16:13 Co 3:15-17 Phi 4:6-7.
Ch 10:12,24,26 Eph 4:31-32 Ga 5:15,19-21 Gi 1:9 2:9-11.
Thi 34:5,7 5:22 91:4 Mat 11:28-30 Gi 8:32 He 4:16 13:5-6 IPhi 5:7.
Thi 27:10 56:11 62:5 Ch 18:24 Es 43:2 Gi 15:14 He 13:5 IPhi 5:7.
Thi 34:10 37:3-4 84:11 Ch 17:17 IICo 12:9 Eph 5:21 6:11 Phi 4:19 Mat 6:8.
He 10:36 Ga 1:3-4 5:7-8,11.
Thi 121:7,8 Es 26:3 Gi 14:27 16:33 Ro 5:1 Phi 4:6-7 Co 3:15 He 13:6.
Thi 34:1 50:23 107:8 139:14 He 13:15
Giop 23:10 55:22 Es 41:3 Thi 55:22 Mat 5:10-11 Ro 8:28 IICo 4:17 IITi 3:12 He 12:7,11 IPhi 2:20 Kh 3:19.
Ro 3:10,23 10:9 IGi 1:9-10 Gi 3:16 5:24 10:10 Lu 19:10 Cong 4:12 Ro 6:23 Eph 2:8-9
Thi 103:3 Ch 18:14 Es 53:4-5 Gi 11:4 Ro 8:28 IICo 12:9 Gia 5:14-15.
Thi 51:1-4,10-12 Es 53:5-6 55:7 59:1-2 Ro 3:23 10:10,13 Ga 3:22 IGi 1:9.
Mat 6:33 IITi 2:15 IIPhi 1:5-8 3:13-14
Thi 32:7 121:7-8 ICo 10:12-13 ICo 4:17 He 2:18 Gia 1:2-4,12 IIPhi 2:9
Thi 55:22 Ch 9:9 Mat 11:28-29 Gi 15:10-12 16:33 Ga 5:22 Phi 4:6-7 He 12:11
Thi 27:14 28:7 Es 40:29,31 41:10 IICo 12:9 IITi 1:7 Phi 4:13.
Thi 11:105 119:11,130 Ch 1:7 4:5-7,13 16:23 Giop 28:23 Gi 3:23 Gia 1:5 Phi 3:14.
Câu Hỏi Ôn Và Thảo Luận Chương 3: Phương Pháp Tâm Vấn Cơ Đốc
1. Những câu truyện trong Kinh thánh cho chúng ta thấy nhiều phương cách khôn ngoan khi giúp đở người khác, Ê-li-hu dùng những phương pháp tâm vấn nào trong khi giúp đỡ Gióp trong hoạn nạn?
2. Phúc âm Luca chương 24 ghi lại câu chuyện phục sinh của Chúa Giê-xu. Qua câu chuyện này chúng ta thấy Chúa sử dụng phương pháp tâm vấn nào?
3. Khi sử dụng các tài nguyên thuộc linh, các nhà tâm vấn Cơ đốc thường gặp phải hai điểm yếu nào? Bạn làm cách nào để tránh trường hợp như vậy?
4. Phạm vi sử dụng các phương tiện thuộc linh tùy thuộc vào những yếu tố nào? Trong trường hợp nào nhà tâm vấn không sử dụng các phương tiện thuộc linh?
5. Bạn suy nghĩ thế nào về câu “Nhà tâm vấn Cơ đốc được coi là công cụ, qua đó Đức Thánh Linh có thể sử dụng để đem lại sự chữa lành tâm trí”?
6. Chúa Giê-xu dùng phương cách tâm vấn khác nhau với mọi người Ngài gặp. Điều này nhắc nhở người làm công tác tâm vấn điều gi?
7. Việc sử dụng lời Chúa quan trọng và hữu ích như thế nào trong quá trình tâm vấn? Hãy nêu ra những tài nguyên thuộc linh khác trong tâm vấn.
Tiến Trình Tâm Vấn Cơ Đốc
Có bao giờ bạn băn khoăn về những đổi thay trong cuộc đời Phao-lô sau khi ông trở thành Cơ-đốc nhân không? Ông là người được ăn học, xuất thân từ một gia đình danh giá. Thời gian đầu trong chức nghiệp, Phao-lô được giới lãnh đạo tôn giáo kính trọng, được kẻ thù nể nang và cũng rất có thể cũng được quần chúng thán phục vì lòng hăng hái, nhiệt thành của ông về đạo. Nhưng rồi Phao-lô trở thành Cơ-đốc nhân, ông kinh nghiệm được ơn tha thứ và cảm nhận được sự bình an đến từ Chúa Cứu Thế. Nhưng trong bức thư thứ nhì gửi cho các tín hữu tại Cô-rinh-tô, ông bảo rằng từ khi qui đạo ông đã trải qua bao nhiêu lao nhọc, đòn vọt, khốn đốn, lo lắng, tù đày (IICo 11:23-30).
Hiển nhiên, những lần bị tù là thời gian vô cùng khốn khổ, nhưng Phao-lô không than van hay ngồi yên khoanh tay, bó gối. Trái lại, ông tận dụng thời gian trong tù để viết thư khích lệ và khuyên dạy giáo hữu. Phi-líp là một trong những bức thư đó. Lúc này Phao-lô đang bị cùm xiềng (Phi 1:14), ông nghe nói một số bạn bè là tín hữu không được vui vẻ với nhau. Trong thư, ông nài xin họ hiệp một trong Chúa và xin những người lãnh đạo Hội Thánh giúp họ vượt qua các mối bất đồng (4:2,3). Ông cũng đề cập đến ba điều các cố vấn cũng như người cần tâm vấn phải lưu tâm.
Các Mối Quan Ngại Trong Tâm Vấn
Khi trao đổi với nhà tâm vấn, hầu như ai cũng bày tỏ quan ngại về cảm xúc của mình. (thí dụ như nhiều người thấy xuống tinh thần, buồn nản, cô đơn hay giận dữ); có những nan đề trong suy nghĩ (“lúc nào tôi cũng nghĩ mình xấu xí và chỉ là một kẻ thua cuộc” hay “Lúc nào tôi cũng có những ý tưởng dâm dục mà không sao loại bỏ được”); hay quan ngại về hành động (“Tôi không kiềm chế nổi tính nóng giận” hay “Tôi không thể bỏ tật xem ảnh khiêu dâm”). Ba lĩnh vực quan ngại này – xúc cảm, suy nghĩ và hành động, cần phải được lưu tâm đến trong hầu hết mọi tình huống tâm vấn.
Những quan ngại về xúc cảm. Mọi người đều có xúc cảm nhưng khác nhau trong cách biểu lộ những xúc cảm này. Tùy theo cá tính, có người dễ dàng thừa nhận xúc cảm, có người che giấu. Đối với một số nền văn hoá ở một số gia đình, việc biểu lộ xúc cảm được khích lệ, nhưng trong những nhóm khác, người ta hiếm khi nhìn nhận hay nói ra xúc cảm của mình. Tuy nhiên, ngay cả khi không nói ra, nhiều người được tâm vấn vẫn thấy ngượng ngùng vì những xúc cảm ngã lòng, nản chí, lo lắng hay có mặc cảm mắc tội.
Chúa Giê-xu cũng có xúc cảm và Kinh Thánh cho biết Ngài thường bày tỏ lòng thương cảm, nhưng cũng có lúc Ngài nổi giận (Mac 3:5), lo buồn và bối rối Mat 26:37-38). Chúng ta cũng biết Chúa từng khóc (Lu 19:41 Gi 11:35), và cũng có trường hợp Chúa rất buồn phiền.
Phao-lô cũng có lúc buồn bực, nhất là khi ở trong tù, nhưng trong tất cả những bất ưng và thiếu thốn đó, ông vẫn tập sống thỏa lòng (Phi 4:12). Ông từng viết rằng Cơ-đốc nhân cần sống vui mừng, vượt lên trên mọi nỗi lo buồn. Làm sao sống được như vậy? Hầu hết các nhà tâm vấn đều khám phá ra rằng chúng ta có thể bảo người ta đừng lo lắng, đừng cô đơn, đừng ngã lòng, nhưng trong thực tế, thay đổi xúc cảm theo ý muốn hầu như là điều bất khả thi! Vì vậy, thừa nhận xúc cảm, như khóc chẳng hạn, cũng là một điều tốt. Tuy nhiên, Phao-lô nói đến những phương thức khác giúp vượt qua những xúc cảm không vui như lo lắng chẳng hạn. Ông khuyên nên có những hành vi nhẹ nhàng từ tốn (Đôi khi xúc cảm dâng lên quá mạnh làm chúng ta nói năng hay hành động thiếu nhẹ nhàng khiến phải hối tiếc về sau). Ông cũng nhắc, “Đừng lo phiền chi hết nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ gìn giữ lòng và ý tưởng anh em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu” (Phi 4:6-7).
Xúc cảm có thể ảnh hưởng đến cả tâm trí và thân thể. Khi chúng ta ưu tư hay lo lắng, mọi suy nghĩ bị ảnh hưởng, có thể làm suy xụp sức khoẻ và chúng ta đau bịnh. Vì thế điều quan trọng là nhà tâm vấn phải ý thức được những xúc cảm của người được tâm vấn. Nếu họ không thổ lộ xúc cảm của mình thì người cố vấn nên hỏi.
Quan ngại về suy nghĩ. Người ta từng cho rằng hầu hết nan đề của con người khởi sự từ tâm trí- và hầu hết cũng giải quyết từ trong tâm trí. Tham dục, bạo động, ganh tị, chỉ trích, thù ghét, và quyết định gây chiến, tất cả khởi sự trong tâm trí. Theo thư He 12:15, những rắc rối cá nhân và các mối quan hệ trở nên căng thẳng khi người ta nuôi dưỡng những tư tưởng cay đắng. Nhưng cũng chính tâm trí là chỗ quyết định yêu thương, bày tỏ lòng thương cảm, sống hài hoà với mọi người hay kiềm chế các xung động tinh thần. Vì thế phần lớn mục vụ tâm vấn là đối phó với suy nghĩ của tâm trí. Thánh Phao-lô đúc kết trong Phi 4:8, “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen thì anh em phải nghĩ đến.”
Nhiều năm trước một hội thánh ở Canada tổ chức bữa ăn đặc biệt thết đãi một trong những thuộc viên lâu năm. Nhiều người nhắc đến tinh thần dấn thân phục vụ Chúa phục vụ tha nhân, nhưng có một người phát biểu một câu tạo ấn tượng sâu sắc nhất, bảo rằng,“Tôi biết người anh em yêu dấu này từ rất nhiều năm nhưng chưa hề nghe anh có một lời nào phê phán bất cứ ai.”
Những người từ chối không chịu nghĩ đến việc chỉ trích thường có đời sống tinh thần và tâm linh khỏe mạnh. Trong khi đó, những người hay có tư tưởng phê phán, tự lên án, hay tự thương hại một cách vô cớ thường là những người hay có nan đề trong sức khoẻ tinh thần. Đôi khi người được tâm vấn tự đi đến những kết luận rất sai về chính mình hay về người khác. Nếu phải giúp những người như thế, chúng ta cần cố gắng tìm hiểu suy nghĩ của họ, giúp họ có những những suy nghĩ chính xác, không thành kiến và phù hợp với các giáo huấn của Kinh Thánh.
Quan ngại về hành động. Nhiều năm trước một nhà tâm vấn viết một cuốn sách nói rằng mọi nan đề đều là hậu quả của những hành động tội lỗi. Quyển sách cho rằng khi một người đến xin được tâm vấn thì nhiệm vụ duy nhất của nhà tâm vấn là tìm cho ra tội lỗi người đó đã phạm và khuyên bảo đương sự từ bỏ tội lỗi đó.
Hầu hết các Cơ-đốc nhân đều đồng ý rằng mọi nan đề của con người xuất phát từ tội của A-đam và Ê-va tại vườn Ê-đen. Hầu hết chúng ta cũng đồng ý rằng khi người ta phạm tội thì những nan đề cá nhân thường theo sau. Kinh Thánh nói rất rõ rằng Đức Chúa Trời là Đấng công chính và tội lỗi sẽ bị trừng phạt.
Tuy nhiên bảo rằng công việc chính của nhà tâm vấn là đi tìm tội lỗi trong đời sống người được tâm vấn là quá đơn giản. Thi 73:1-28 là một nhận định rất thực tiễn về tội lỗi. Tác giả bảo rằng, trước mắt những kẻ phạm tội công khai tưởng như không gặp nan đề gì còn những người sống ngay lành lại gặp nhiều gian truân, nhưng rồi ra đến cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ phán xét công bình.
Chuyện ông Gióp trong Cựu ước là một trường hợp điển hình. Theo Kinh Thánh, Gióp là một người công chính nhưng ông có nhiều nỗi căng thẳng cùng cực. Bạn bè ông và cả Sa-tan đều nhất quyết bảo rằng những khổ nặn Gióp phải chịu là do tội lỗi, nhưng Đức Chúa Trời phủ nhận quan điểm này. Nan đề của Gióp không phải vì ông phạm tội (Giop 2:3).
Tất nhiên nan đề có thể do người được tâm vấn đã lầm lỗi hay thiếu khôn ngoan, nhưng nan đề cũng xuất hiện khi một người không được hướng dẫn, ít học, hay là nạn nhân hành động của của người khác. Nan đề xuất hiện có thể do rất nhiều lý do.
Để giúp ngăn ngừa những khó khăn như thế bức thư trong lao tù của Phao-lô truyền dạy cơ đốc nhân thực hành những gì họ đã thấy, đã nghe, đã học nơi ông (Phi 4:9). Sự bình an của Đức Chúa Trời được hứa ban cho những người có cuộc sống tôn cao Chúa Cứu Thế cho dù vẫn phải tiếp tục sống trong hoạn nạn. Hội thánh tại thành Phi-líp là Hội thánh nhận bức thư này rõ ràng là đã có nhiều thuộc viên có niềm tin được thể hiện ra thành những hành động yêu thương. Họ đã quan tâm chăm sóc Phao-lô trong cơn hoạn nạn và ông rất biết ơn họ. Chắc hẳn Phao-lô cũng cùng một ý với Gia-cơ bảo rằng chúng ta cần phải là người làm theo lời Chúa chứ không chỉ nghe xuông (Gia 1:22).
Cũng cần để ý rằng Phao-lô có một thái độ rất hay trước khó khăn. Hai lần ông bảo rằng gặp cảnh ngộ nào ông cũng tập sống thỏa lòng (Phi 4:11-2). Bí quyết sống thỏa lòng của ông được ghi trong Phi-líp chương 4 và chắc chắn có thể được áp dụng cho các nhà tâm vấn cũng như những người được tâm vấn thời nay. Và cũng như Phao-lô, chúng ta có thể trở thành những người bén nhạy với người khác khi quan tâm đến tình cảm, suy nghĩ và hành động của họ.
Những Giai Đoạn Tâm Vấn
Hầu hết chúng ta đều có kinh nghiệm mua sắm và hầu như món đồ nào cũng đều kèm theo tờ hướng dẫn cách sử dụng. Đôi lúc có những món chúng ta phải theo sát từng bước mới có thể ráp món đồ lại được. Công tác tâm vấn cũng sẽ dễ dàng nếu chúng ta có mẫu chỉ dẫn từng bước để có thể phục hồi những cuộc đời tan vỡ. Tâm vấn sẽ đơn giản nếu các nan đề có thể được giải quyết như cách nấu ăn trình bày trong sách dạy gia chánh, nghĩa là bao gồm những hướng dẫn chi tiết nếu theo đúng thì chắc chắn làm được. Nhưng như chúng ta thấy, con người không đơn giản như thế và những nan đề của con người không giống như các bộ phận của cái máy hay như các vật liệu để nấu món ăn. Mỗi người và mỗi nan đề đều phải được giúp đỡ và giải quyết bằng những cách riêng và đây chính là lý do khiến cho công tác tâm vấn vừa khó khăn vừa đầy thách thức.
Nhiều năm trước đây một công trình nghiên cứu 500 mục sư quản nhiệm các giáo sở kết luận rằng hầu hết các mục sư làm tâm vấn đều “có một cảm xúc rất thấm thía với tâm trạng chán nản, hoang mang và ngay cả với ý thức nghĩ rằng mình vô dụng” mỗi khi được gọi nhờ giúp đỡ. Cuộc thăm dò cho biết khi giáo hữu nhờ giúp giải quyết nan đề, nhiều nhà lãnh đạo hội thánh cảm thấy rất lo lắng, bối rối, ngại ngần.
Đây cũng là cảm xúc thông thường, ngay cả đối với những người hướng dẫn có kinh nghiệm làm tâm vấn cũng vậy. Nhà tâm vấn có thể cố gắng bày tỏ những đặc tính như đã bàn trong chương 2 và sử dụng những kỹ thuật nêu lên trong chương 3. Tuy nhiên, cũng có lúc nhà tâm vấn cần tự hỏi, “Bước kế tiếp tôi phải làm gì?” Làm sao nhà tâm vấn có thể hoàn tất một tiến trình tâm vấn từ đầu đến cuối?
Chia tiến trình tâm vấn thành từng bước hay từng giai đoạn có phần không thực tế vì biên giới giữa các giai đoạn thường mơ hồ, hơn nữa các giai đoạn cũng có thể trùng lấp. Dù vậy, việc phân chia này có lợi ở chỗ giúp chúng ta thấy rõ diễn tiến của quá trình tâm vấn và có thể chia làm bốn giai đoạn như sau: giai đoạn giới thiệu và tìm hiểu, giai đoạn thiết định mục tiêu, giai đoạn đi vào giải pháp bằng hành động, và giai đoạn kết thúc. Cả bốn giai đoạn này có thể hoàn tất trong một lần trao đổi, nhưng thông thường được trải ra trong một thời gian dài hơn.
Giai Đoạn Giới Thiệu-Tìm Hiểu (GĐ-1)
Có ít nhất ba mục tiêu cần đạt được vào lúc khởi đầu chương trình tâm vấn. Chúng ta phải tiếp xúc với đối tượng có nhu cầu, thiết lập quan hệ với đối tượng, và tìm cách xác định nan đề đối tượng đang có.
Tiếp xúc. Hiển nhiên chúng ta không thể làm tâm vấn nếu chưa bao giờ gặp gỡ người cần giúp. Vì vậy, để khởi sự mục vụ tâm vấn, cần cho người ta biết chúng ta sẵn sàng giúp. Có thể làm việc này bằng hai cách: thông báo cho biết chúng ta muốn giúp và bày tỏ cho thấy mối quan tâm của chúng ta.
Đôi khi cần có một thông báo chính thức về mục vụ tâm vấn in trong bản tin hay chương trình của hội thánh, hay thông báo đọc trong buổi nhóm: “Mục Sư có mục vụ tâm vấn vào thứ ba và thứ năm hàng tuần. Tín hữu nào có nhu cầu xin gọi điện thoại lấy hẹn.” Cũng có thể thông báo một cách thân mật trong những dịp sinh hoạt khác: “Trong vòng các con cái Chúa ai có nan đề trong đời sống cá nhân hoặc gia đình muốn tâm sự với chúng tôi, xin đừng ngại, chúng tôi có dành thì giờ để chúng ta có thể trò chuyện trao đổi với nhau.”
Khởi đầu, lối kêu gọi này có thể không khiến người ta sắp hàng đến xin tâm vấn đâu, nhưng thông thường hơn, mục vụ tâm vấn thực sự phát triển từ những tiếp xúc thân mật với những người chúng ta gặp gỡ đâu đó hay trong hội thánh. Thí dụ như những người trẻ thường cởi mở hơn, thổ lộ nan đề cá nhân sau khi quen biết người hướng dẫn thanh niên trong dịp đi xem một trận thi đấu thể thao hay những buổi họp mặt thân mật nào khác. Lúc uống cà-phê chung hay trò chuyện trên đường về sau buổi nhóm, cũng thường là cơ hội thổ lộ nan đề mà sau đó có thể trở thành những buổi trao đổi tâm vấn chính thức. Có thể khéo léo tiếp tục câu chuyện bằng cách gợi ý như sau, “Sau 4 giờ chiều mai có thì giờ rộng rãi hơn, nếu mình trao đổi thêm chuyện này chắc sẽ rất hữu ích.” Gợi ý như thế vừa nhẹ nhàng vừa tự nhiên nhưng khá hữu hiệu để có buổi hẹn.
Thiết lập quan hệ. Lúc khởi đầu, hai điều rất quan trọng là làm cho người được tâm vấn thấy thoải mái và thiết lập quan hệ -một mối quan hệ nhẹ nhàng, tin cậy giữa cố vấn và người được tâm vấn. Khung cảnh tươi vui, yên tĩnh, không bị quấy rầy cộng thêm với một số đặc tính thích hợp của nhà tâm vấn như đã nêu lên trong chương 2, sẽ giúp cho mối tương giao xuất hiện với một khởi đầu tốt đẹp. Trong giai đoạn này, thông thường cũng sẽ nảy sinh một cảm nhận gọi là lượng định hỗ tương qua đó cả người cố vấn lẫn người được tâm vấn cùng để ý nhau rất kỹ để có những kết luận sơ khởi về mối quan hệ song phương. Nếu kết quả đánh giá này đưa đến những cảm nhận tích cực thì giai đoạn đầu tiên của mối quan hệ thực sự đã được thiết lập.
Đôi khi người cần tâm vấn thấy khó khăn đối diện với nan đề hay chia xẻ nan đề với cố vấn cho nên mở đầu thường chỉ bàn chuyện thời tiết hay những chủ đề vô thưởng vô phạt, trước khi đụng đến nan đề. Nhà tâm vấn cần biểu lộ tinh thần sẵn lòng “ở với” người cần tâm vấn để lắng nghe và đôi khi cần hỗ trợ, khích lệ đặc biệt là trong giai đoạn đầu của tiến trình tâm vấn để rồi dần dà người cần tâm vấn sẽ thổ lộ cho biết tại sao mình đến xin tâm vấn. Câu hỏi, “Tôi có thể giúp gì?” và thái độ quan tâm của nhà tâm vấn sẽ khích lệ người đó thổ lộ nan đề.
Làm sáng tỏ nan đề. Mới đầu chúng ta tưởng việc này khá dễ dàng, nghĩa là chỉ cần hỏi người có nhu cầu tâm vấn cho biết nan đề là gì rồi tìm giải pháp. Trong thực thế vấn đề thường không đơn giản như vậy. Đôi khi người ta rất ngại thổ lộ nan đề. Thường họ biết có điều gì đó làm họ bận tâm nhưng lại không xác định được. Có khi họ nêu ra nan đề nhưng về sau người cố vấn lại khám phá ra rằng vấn đề họ nói không phải là nan đề chính hay là nan đề duy nhất. Vì vậy công việc của bạn, nhà tâm vấn, là lắng nghe, quan sát, khích lệ và đôi khi góp ý hay nêu các câu hỏi ngắn để giúp làm sáng tỏ hình ảnh người đó: cá tính, nan đề, quan điểm về cuộc đời và những nỗ lực trong quá khứ của đương sự nhằm giải quyết nan đề. Những câu hỏi khai mở như thế cũng giúp người được tâm vấn cảm thấy thoải mái hơn, có cái nhìn vào nan đề rõ ràng hơn, và đôi khi có thể giải tỏa được những xúc cảm và bực dọc bị ức chế chưa được nói ra.
Trong giai đoạn này, nhà tâm vấn cũng có thể dò dẫm tìm hiểu những khía cạnh sau: Tôi có thể làm việc với người này không? Tôi có muốn thủ giúp không? Nan đề của người này có ngoài lãnh vực chuyên môn và ngoài khả năng của tôi không? Cùng lúc đó, người cần tâm vấn cũng có thể tự hỏi: Tôi có tin được nhà tâm vấn này không? Người cố vấn này có thể giúp được tôi không? Tôi có muốn cam kết tiếp tục tiến trình tâm vấn này không?
Có thể vào phần cuối của buổi gặp gỡ đầu tiên, những câu hỏi như trên có thể được nêu lên thảo luận, và nhà tâm vấn có thể nói đại khái như , “Tôi có thể giúp anh được, nhưng chúng ta cần phải có nhiều buổi trao đổi với nhau. Anh thấy sao?” Lọai thảo luận như thế gọi là sắp xếp tiến trình (structuring) để quyết định xem tiến trình tâm vấn có thể tiến hành không và nếu tiếp tục thì sẽ như thế nào.
Giai Đoạn Định Mục Tiêu (GĐ –2)
Nhiều thế kỷ trước, vua Đa-vít bày tỏ thái độ kinh ngạc về việc Đức Chúa Trời quan tâm thật sâu sắc cả đến ý tưởng và những lo lắng của những loài Ngài sáng tạo khi ông viết trong Thi 139:14, “Tôi ca ngợi Chúa, vì Chúa đã sáng tạo tôi cách đáng sợ lạ lùng.”
Hầu hết các nhà tâm vấn đều thấy ngay đối tượng của mình “ được tạo dựng rất đáng sợ lạ lùng,” với cá tính phức hợp và những lối suy tưởng nhiêu khê, phức tạp. Không một con người nào có khả năng hiểu hết về người khác mà chỉ với sự trợ giúp của Chúa, nhà tâm vấn mới có thể khởi sự hiểu được đối tượng, và cũng chỉ với sự trợ giúp từ trên cao nhà tâm vấn mới có thể giúp được người có nan đề.
Tuy nhiên điều quan trọng là chúng ta thực hành mục vụ tâm vấn trong tinh thần cầu nguyện và thái độ khiêm nhu. Cầu nguyện cho đối tượng và cho tiến trình tâm vấn trrước và sau mỗi buổi gặp mặt sẽ giúp ích rất nhiều. Cũng có nhiều nhà tâm vấn thường cầu nguyện thầm ngay trong giờ trao đổi.
Với sự trợ giúp của Chúa và sau khi đã cẩn thận lắng nghe và tìm hiểu, bạn có thể dần dần xác định được nan đề cần giải quyết. Đôi khi bạn có thể khám phá ngay nan đề sau vài phút trao đổi, nhưng cũng có lúc phải mất nhiều tuần bạn mới có thể biết đối tượng đang bị điều gì dằn vặt. Cũng có những tình huống nhà tâm vấn không hoàn toàn hiểu nan đề đã phát triển như thế nào, nhưng nếu bạn có thể hình dung khárõ nan đề là gì, bạn vẫn có thể giúp người cần tâm vấn đạt được giải pháp.
Những người mới bước vào lãnh vực tâm vấn thường lo lắng khi thấy mình không nhanh chóng tìm được cách giải quyết nan đề của đối tượng. Tâm trạng này phản ánh ý tưởng cho rằng nhà tâm vấn phải là người có câu trả lời và công tác tâm vấn giống như mối quan hệ giữa bác sĩ với bệnh nhân, qua đó bệnh nhân kê khai mọi triệu chứng và bác sĩ đưa ra phương thức trị liệu.
Trong lãnh vực tâm vấn, tiến trình không giống như thế, mà thông thường là người có nhu cầu mô tả chi tiết nan đề của mình rồi cả người đó và nhà tâm vấn cùng hợp lực tìm giải pháp. Vì khách quan, lại được trang bị, có nhiều kinh nghiệm và sáng suốt cho nên nhà tâm vấn có thể nghĩ đến những điều và những việc khả thi mà người có nan đề chưa bao giờ để tâm. Người cần tâm vấn có thể cũng phải nhìn thẳng vào những thái độ tội lỗi và chủ bại, là nguyên nhân gây ra nan đề. Cả hai cũng có thể thảo luận, tìm hiểu xem điều gì trong quá khứ đã gây ra nan đề và tìm phương giải quyết trong hiện tại. Có thể cũng cần phải xét cả những áp lực của hoàn cảnh như những khó khăn trong gia đình hay những bất ổn chính trị gây căng thẳng và làm nan đề trầm trọng hơn.
Khi cả nhà tâm vấn và đối tượng cùng hiểu rõ tình hình, thấy nan đề đã được đối phó như thế nào trong quá khứ – thành công hay chưa thành công, và rồi sẽ phải giải quyết như thế nào trong tương lai để được hữu hiệu hơn. Cả nhà tâm vấn và người được tâm vấn cần suy tìm những loại giải pháp khả thi và chọn mục tiêu cho việc giải quyết nan đề.
Mục tiêu mơ hồ thường không hữu ích cho quá trình tâm vấn. Nếu một cặp vợ chồng có nan đề hôn nhân và mục tiêu giải quyết là “để sống thuận thảo hơn,” thì không lâu họ sẽ thấy mục tiêu đó quá mơ hồ, không giúp họ tìm được phương hướng giải quyết. Tiến trình sẽ hữu hiệu hơn nếu tìm được những mục tiêu rõ ràng cụ thể. Thí dụ như họ quyết định mỗi ngày khen tặng nhau một lần hay cố gắng lắng nghe nhau trong năm phút. Đây có vẻ là những mục tiêu nhỏ nhoi, nhưng lại rất cụ thể, dễ thực hiện, cũng dễ thấy họ có đạt được hay không.
Một số nhà tâm vấn khích lệ người cần tâm vấn lập một bảng liệt kê những hành động có thể làm để thay đổi thái độ và tác phong. Ấn định cách thức và thời gian những mục tiêu này phải hoàn hành rồi xin Đức Chúa Trời giúp người đó thực hiện để đạt mục tiêu trong khoảng thời gian giữa các buổi họp tâm vấn.
Giai Đoạn Hành Động Theo Giải Pháp (GĐ-3)
Có bao giờ bạn từng quyết định sẽ thay đổi tác phong như thế nào đó nhưng rồi lại thấy mình không bao giờ khởi sự hành động đạt mục tiêu. Hầu hết chúng ta từng biết có những người ghiền thuốc lá quyết định bỏ, nhưng vẫn cứ tiếp tục hút nhiều năm sau rồi mới thực sự thôi.
Nhà tâm vấn cũng thường gặp những tình huống tương tự. Một người có nan đề đã thảo luận và quyết định nhiều giải pháp, nhưng cứ lần lữa, trì hoãn hành động. Đây không phải là điều khó hiểu. Nghĩ đến những ý hướng tốt rất dễ, nhưng quyết định hành động để đạt đến mục tiêu thường khó hơn nhiều. Vì vậy thách thức của nhà tâm vấn là làm sao khích lệ người đó hành động hoặc chấp nhận, giúp người đó cố gắng làm lại mỗi khi thất bại hay đề nghị biện pháp mới mỗi khi giải pháp cũ không kết quả và thường xuyên huớng dẫn trong quá trình người đó thực hành giải pháp.
Đôi khi có tình huống nhà tâm vấn thấy không thể thay đổi mà chỉ có thể chấp nhận hay thích ứng, thí dụ như trong trường hợp một phụ nữ chồng chết thì hiển nhiên bà không thể làm gì hơn là chấp nhận, nhưng nhà tâm vấn có thể giúp bà biết cách điều chỉnh để có thể sống trong cảnh goá bụa.
Qua tất cả những phương thức này, nhà tâm vấn Cơ đốc luôn luôn giữ mối quan tâm đối với sức khoẻ tâm linh của người có nan đề, đưa ra những hướng dẫn cho thấy trong cuộc sống rối ren nhiều khó khăn, ChúaCứu Thế có thể làm gì cứu giúp họ.
Như vậy, cả nhà tâm vấn và người được tâm vấn phải đi vào thực hành nhiều hơn là chỉ bàn suông về nan đề và giải pháp. Mỗi giải pháp cần phải được thực nghiệm và sau đó được người có nan đề đánh giá, tốt nhất là với sự trợ giúp của nhà tâm vấn. Nếu giải pháp không kết quả, cả hai cần xem xét lại nan đề, thảo luận thêm, tái đánh giá những suy nghĩ trước và thử nghiệm lại.
Giai Đoạn Kết Thúc (GĐ-4)
Khi nhà tâm vấn và người có nhu cầu đã biết rõ nan đề, đã thảo luận chi tiết, đã đưa ra được những mục tiêu có thể đạt tới và đã khởi sự tìm giải pháp thì đây cũng là lúc tiến trình tâm vấn phải kết thúc. Nếu quá trình vừa nêu lâu dài và tốt đẹp thì việc kết thúc có thể khó. Vì khó nói lời từ biệt cho nên nhà tâm vấn đôi khi cố tiếp tục tiến trình tâm vấn dù không còn cần thiết nữa. Vì vậy, khi thấy đã đến giai đoạn kết thúc, nhà tâm vấn có thể nói, “Tôi thấy chúng ta đã tiến đến giai đoạn anh/chị có thể tự giải quyết nan đề không cần tôi trợ giúp nữa.” Nói như vậy sẽ giúp người có nan đề hiểu rằng tiến trình tâm vấn sắp xong. Đôi khi cũng cần phải bàn thảo nếu việc kết thúc tiến trình này gặp khó khăn. Dù sao người có nan đề cần biết rằng “cánh cửa luôn luôn rộng mở” nếu người đó thấy việc tiếp xúc với nhà tâm vấn giúp ích cho mình. Cũng cần thảo luận để người có nan đề biết cách tự giải quyết với sự trợ giúp tối thiểu từ bên ngoài. Mục tiêu chính của tương quan tâm vấn là giúp người có nan đề đối phó hữu hiệu hơn với những khó khăn trong đời sống, vì vậy kết thúc một tiến trình tâm vấn không phải là đã xong. Kết thúc tiến trình tâm vấn chỉ là thời đìểm để người có nan đề khởi sự bước vào giai đoạn mới trong cuộc sống, trong đó những khó khăn được đối phó hữu hiệu hơn với sự trợ giúp từ Chúa.
Nhiều tuần sau khi kết thúc mục vụ tâm vấn, bạn có thể tiếp xúc với người được tâm vấn để biết tình trạng ra sao. Việc tiếp xúc này nói lên mối quan tâm chân thật sẽ giúp bạn đánh giá kết quả công tác tâm vấn của mình, cũng cho người đó cơ hội chia xẻ những diễn tiến mới trong đời sống hay nêu những thắc mắc nào xuất hiện sau khi tiến trình tâm vấn kết thúc. Mục tiêu ở đây không phải là khơi sâu tinh thần tùy thuộc hay dụ khách trở lại dịch vụ tâm vấn, nhưng chỉ là để bày tỏ tinh thần tiếp tục chăm sóc và quan tâm đến những người đã từng đến với mình.
Trong sách vở, những điều này xem ra đơn giản, dễ dàng, nhưng áp dụng trong thực hành khó hơn nhiều. Cần nhớ rằng nhà tâm vấn không một mình chịu hoàn toàn trách nhiệm về nan đề của người có nhu cầu, vì tâm vấn liên quan đến ít nhất hai người, cùng nhau cộng tác để giải quyết nan đề.
Cũng cần nhớ rằng những giai đoạn tâm vấn không luôn luôn theo trình tự. Thí dụ như việc xây dựng, củng cố quan hệ (establish rapport) trong tiến trình tâm vấn rất quan trọng không chỉ là vào lúc khởi đầu. Thường có tình trạng giao thoa giữa giai đoạn đặt mục tiêu (GĐ- 2) và giai đoạn hành động theo giải pháp (GĐ- 3).
Cuối cùng, cần phải nhận thức rằng tất cả các nan đề không nhất thiết được xử lý giống nhau. Một goá phụ bị tổn thương vì đau khổ, cần một loại tâm vấn khác hơn một thiếu niên bực dọc vì chương trình sinh hoạt thanh niên trong hội thánh tẻ nhạt. Vì vậy, người lãnh đạo Cơ-đốc cần hiểu những thể loại tâm vấn khác nhau, và đó là nội dung của chương sau.
Câu Hỏi Ôn Và Thảo Luận Chương 4: Tiến Trình Tâm Vấn Cơ Đốc
1. Thánh Phao-lô đề cập đến ba điều nào các nhà tâm vấn và được tâm vấn lưu tâm?
2. Khi trao đổi với nhà tâm vấn, người được tâm vấn có những quan ngại nào? Tại sao?
3. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, người được tâm vấn thường đối diện với những trở ngại nào? Tại sao bày tỏ cảm xúc là một thách thức?
4. Thánh Phao-lô nêu ra những phương cách nào giúp vượt qua những cảm xúc lo lắng tiêu cực?
5. Tại sao nhà tâm vấn phải ý thức được những cảm xúc của người được tâm vấn?
6. Bạn nhận xét thế nào về câu nói “Hầu hết nan đề của con người khởi sự từ tâm trí và hầu hết cũng giải quyết từ tâm trí”? Kinh Thánh dạy về điều này như thế nào?
7. Công việc chính của nhà tâm vấn là tìm tội lỗi trong đời sống người được tâm vấn và thay đổi hành vi của họ. Bạn đồng ý với câu nói trên không? Tại sao?
8. Làm thế nào để trở thành một nhà tâm vấn hữu hiệu, nhạy bén với người khác khi quan tâm đến tình cảm, suy nghĩ và hành động của họ?
Tiến Trình Tâm Vấn Cơ Đốc
Có bao giờ bạn băn khoăn về những đổi thay trong cuộc đời Phao-lô sau khi ông trở thành Cơ-đốc nhân không? Ông là người được ăn học, xuất thân từ một gia đình danh giá. Thời gian đầu trong chức nghiệp, Phao-lô được giới lãnh đạo tôn giáo kính trọng, được kẻ thù nể nang và cũng rất có thể cũng được quần chúng thán phục vì lòng hăng hái, nhiệt thành của ông về đạo. Nhưng rồi Phao-lô trở thành Cơ-đốc nhân, ông kinh nghiệm được ơn tha thứ và cảm nhận được sự bình an đến từ Chúa Cứu Thế. Nhưng trong bức thư thứ nhì gửi cho các tín hữu tại Cô-rinh-tô, ông bảo rằng từ khi qui đạo ông đã trải qua bao nhiêu lao nhọc, đòn vọt, khốn đốn, lo lắng, tù đày (IICo 11:23-30).
Hiển nhiên, những lần bị tù là thời gian vô cùng khốn khổ, nhưng Phao-lô không than van hay ngồi yên khoanh tay, bó gối. Trái lại, ông tận dụng thời gian trong tù để viết thư khích lệ và khuyên dạy giáo hữu. Phi-líp là một trong những bức thư đó. Lúc này Phao-lô đang bị cùm xiềng (Phi 1:14), ông nghe nói một số bạn bè là tín hữu không được vui vẻ với nhau. Trong thư, ông nài xin họ hiệp một trong Chúa và xin những người lãnh đạo Hội Thánh giúp họ vượt qua các mối bất đồng (4:2,3). Ông cũng đề cập đến ba điều các cố vấn cũng như người cần tâm vấn phải lưu tâm.
Các Mối Quan Ngại Trong Tâm Vấn
Khi trao đổi với nhà tâm vấn, hầu như ai cũng bày tỏ quan ngại về cảm xúc của mình. (thí dụ như nhiều người thấy xuống tinh thần, buồn nản, cô đơn hay giận dữ); có những nan đề trong suy nghĩ (“lúc nào tôi cũng nghĩ mình xấu xí và chỉ là một kẻ thua cuộc” hay “Lúc nào tôi cũng có những ý tưởng dâm dục mà không sao loại bỏ được”); hay quan ngại về hành động (“Tôi không kiềm chế nổi tính nóng giận” hay “Tôi không thể bỏ tật xem ảnh khiêu dâm”). Ba lĩnh vực quan ngại này – xúc cảm, suy nghĩ và hành động, cần phải được lưu tâm đến trong hầu hết mọi tình huống tâm vấn.
Những quan ngại về xúc cảm. Mọi người đều có xúc cảm nhưng khác nhau trong cách biểu lộ những xúc cảm này. Tùy theo cá tính, có người dễ dàng thừa nhận xúc cảm, có người che giấu. Đối với một số nền văn hoá ở một số gia đình, việc biểu lộ xúc cảm được khích lệ, nhưng trong những nhóm khác, người ta hiếm khi nhìn nhận hay nói ra xúc cảm của mình. Tuy nhiên, ngay cả khi không nói ra, nhiều người được tâm vấn vẫn thấy ngượng ngùng vì những xúc cảm ngã lòng, nản chí, lo lắng hay có mặc cảm mắc tội.
Chúa Giê-xu cũng có xúc cảm và Kinh Thánh cho biết Ngài thường bày tỏ lòng thương cảm, nhưng cũng có lúc Ngài nổi giận (Mac 3:5), lo buồn và bối rối Mat 26:37-38). Chúng ta cũng biết Chúa từng khóc (Lu 19:41 Gi 11:35), và cũng có trường hợp Chúa rất buồn phiền.
Phao-lô cũng có lúc buồn bực, nhất là khi ở trong tù, nhưng trong tất cả những bất ưng và thiếu thốn đó, ông vẫn tập sống thỏa lòng (Phi 4:12). Ông từng viết rằng Cơ-đốc nhân cần sống vui mừng, vượt lên trên mọi nỗi lo buồn. Làm sao sống được như vậy? Hầu hết các nhà tâm vấn đều khám phá ra rằng chúng ta có thể bảo người ta đừng lo lắng, đừng cô đơn, đừng ngã lòng, nhưng trong thực tế, thay đổi xúc cảm theo ý muốn hầu như là điều bất khả thi! Vì vậy, thừa nhận xúc cảm, như khóc chẳng hạn, cũng là một điều tốt. Tuy nhiên, Phao-lô nói đến những phương thức khác giúp vượt qua những xúc cảm không vui như lo lắng chẳng hạn. Ông khuyên nên có những hành vi nhẹ nhàng từ tốn (Đôi khi xúc cảm dâng lên quá mạnh làm chúng ta nói năng hay hành động thiếu nhẹ nhàng khiến phải hối tiếc về sau). Ông cũng nhắc, “Đừng lo phiền chi hết nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ gìn giữ lòng và ý tưởng anh em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu” (Phi 4:6-7).
Xúc cảm có thể ảnh hưởng đến cả tâm trí và thân thể. Khi chúng ta ưu tư hay lo lắng, mọi suy nghĩ bị ảnh hưởng, có thể làm suy xụp sức khoẻ và chúng ta đau bịnh. Vì thế điều quan trọng là nhà tâm vấn phải ý thức được những xúc cảm của người được tâm vấn. Nếu họ không thổ lộ xúc cảm của mình thì người cố vấn nên hỏi.
Quan ngại về suy nghĩ. Người ta từng cho rằng hầu hết nan đề của con người khởi sự từ tâm trí- và hầu hết cũng giải quyết từ trong tâm trí. Tham dục, bạo động, ganh tị, chỉ trích, thù ghét, và quyết định gây chiến, tất cả khởi sự trong tâm trí. Theo thư He 12:15, những rắc rối cá nhân và các mối quan hệ trở nên căng thẳng khi người ta nuôi dưỡng những tư tưởng cay đắng. Nhưng cũng chính tâm trí là chỗ quyết định yêu thương, bày tỏ lòng thương cảm, sống hài hoà với mọi người hay kiềm chế các xung động tinh thần. Vì thế phần lớn mục vụ tâm vấn là đối phó với suy nghĩ của tâm trí. Thánh Phao-lô đúc kết trong Phi 4:8, “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen thì anh em phải nghĩ đến.”
Nhiều năm trước một hội thánh ở Canada tổ chức bữa ăn đặc biệt thết đãi một trong những thuộc viên lâu năm. Nhiều người nhắc đến tinh thần dấn thân phục vụ Chúa phục vụ tha nhân, nhưng có một người phát biểu một câu tạo ấn tượng sâu sắc nhất, bảo rằng,“Tôi biết người anh em yêu dấu này từ rất nhiều năm nhưng chưa hề nghe anh có một lời nào phê phán bất cứ ai.”
Những người từ chối không chịu nghĩ đến việc chỉ trích thường có đời sống tinh thần và tâm linh khỏe mạnh. Trong khi đó, những người hay có tư tưởng phê phán, tự lên án, hay tự thương hại một cách vô cớ thường là những người hay có nan đề trong sức khoẻ tinh thần. Đôi khi người được tâm vấn tự đi đến những kết luận rất sai về chính mình hay về người khác. Nếu phải giúp những người như thế, chúng ta cần cố gắng tìm hiểu suy nghĩ của họ, giúp họ có những những suy nghĩ chính xác, không thành kiến và phù hợp với các giáo huấn của Kinh Thánh.
Quan ngại về hành động. Nhiều năm trước một nhà tâm vấn viết một cuốn sách nói rằng mọi nan đề đều là hậu quả của những hành động tội lỗi. Quyển sách cho rằng khi một người đến xin được tâm vấn thì nhiệm vụ duy nhất của nhà tâm vấn là tìm cho ra tội lỗi người đó đã phạm và khuyên bảo đương sự từ bỏ tội lỗi đó.
Hầu hết các Cơ-đốc nhân đều đồng ý rằng mọi nan đề của con người xuất phát từ tội của A-đam và Ê-va tại vườn Ê-đen. Hầu hết chúng ta cũng đồng ý rằng khi người ta phạm tội thì những nan đề cá nhân thường theo sau. Kinh Thánh nói rất rõ rằng Đức Chúa Trời là Đấng công chính và tội lỗi sẽ bị trừng phạt.
Tuy nhiên bảo rằng công việc chính của nhà tâm vấn là đi tìm tội lỗi trong đời sống người được tâm vấn là quá đơn giản. Thi 73:1-28 là một nhận định rất thực tiễn về tội lỗi. Tác giả bảo rằng, trước mắt những kẻ phạm tội công khai tưởng như không gặp nan đề gì còn những người sống ngay lành lại gặp nhiều gian truân, nhưng rồi ra đến cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ phán xét công bình.
Chuyện ông Gióp trong Cựu ước là một trường hợp điển hình. Theo Kinh Thánh, Gióp là một người công chính nhưng ông có nhiều nỗi căng thẳng cùng cực. Bạn bè ông và cả Sa-tan đều nhất quyết bảo rằng những khổ nặn Gióp phải chịu là do tội lỗi, nhưng Đức Chúa Trời phủ nhận quan điểm này. Nan đề của Gióp không phải vì ông phạm tội (Giop 2:3).
Tất nhiên nan đề có thể do người được tâm vấn đã lầm lỗi hay thiếu khôn ngoan, nhưng nan đề cũng xuất hiện khi một người không được hướng dẫn, ít học, hay là nạn nhân hành động của của người khác. Nan đề xuất hiện có thể do rất nhiều lý do.
Để giúp ngăn ngừa những khó khăn như thế bức thư trong lao tù của Phao-lô truyền dạy cơ đốc nhân thực hành những gì họ đã thấy, đã nghe, đã học nơi ông (Phi 4:9). Sự bình an của Đức Chúa Trời được hứa ban cho những người có cuộc sống tôn cao Chúa Cứu Thế cho dù vẫn phải tiếp tục sống trong hoạn nạn. Hội thánh tại thành Phi-líp là Hội thánh nhận bức thư này rõ ràng là đã có nhiều thuộc viên có niềm tin được thể hiện ra thành những hành động yêu thương. Họ đã quan tâm chăm sóc Phao-lô trong cơn hoạn nạn và ông rất biết ơn họ. Chắc hẳn Phao-lô cũng cùng một ý với Gia-cơ bảo rằng chúng ta cần phải là người làm theo lời Chúa chứ không chỉ nghe xuông (Gia 1:22).
Cũng cần để ý rằng Phao-lô có một thái độ rất hay trước khó khăn. Hai lần ông bảo rằng gặp cảnh ngộ nào ông cũng tập sống thỏa lòng (Phi 4:11-2). Bí quyết sống thỏa lòng của ông được ghi trong Phi-líp chương 4 và chắc chắn có thể được áp dụng cho các nhà tâm vấn cũng như những người được tâm vấn thời nay. Và cũng như Phao-lô, chúng ta có thể trở thành những người bén nhạy với người khác khi quan tâm đến tình cảm, suy nghĩ và hành động của họ.
Những Giai Đoạn Tâm Vấn
Hầu hết chúng ta đều có kinh nghiệm mua sắm và hầu như món đồ nào cũng đều kèm theo tờ hướng dẫn cách sử dụng. Đôi lúc có những món chúng ta phải theo sát từng bước mới có thể ráp món đồ lại được. Công tác tâm vấn cũng sẽ dễ dàng nếu chúng ta có mẫu chỉ dẫn từng bước để có thể phục hồi những cuộc đời tan vỡ. Tâm vấn sẽ đơn giản nếu các nan đề có thể được giải quyết như cách nấu ăn trình bày trong sách dạy gia chánh, nghĩa là bao gồm những hướng dẫn chi tiết nếu theo đúng thì chắc chắn làm được. Nhưng như chúng ta thấy, con người không đơn giản như thế và những nan đề của con người không giống như các bộ phận của cái máy hay như các vật liệu để nấu món ăn. Mỗi người và mỗi nan đề đều phải được giúp đỡ và giải quyết bằng những cách riêng và đây chính là lý do khiến cho công tác tâm vấn vừa khó khăn vừa đầy thách thức.
Nhiều năm trước đây một công trình nghiên cứu 500 mục sư quản nhiệm các giáo sở kết luận rằng hầu hết các mục sư làm tâm vấn đều “có một cảm xúc rất thấm thía với tâm trạng chán nản, hoang mang và ngay cả với ý thức nghĩ rằng mình vô dụng” mỗi khi được gọi nhờ giúp đỡ. Cuộc thăm dò cho biết khi giáo hữu nhờ giúp giải quyết nan đề, nhiều nhà lãnh đạo hội thánh cảm thấy rất lo lắng, bối rối, ngại ngần.
Đây cũng là cảm xúc thông thường, ngay cả đối với những người hướng dẫn có kinh nghiệm làm tâm vấn cũng vậy. Nhà tâm vấn có thể cố gắng bày tỏ những đặc tính như đã bàn trong chương 2 và sử dụng những kỹ thuật nêu lên trong chương 3. Tuy nhiên, cũng có lúc nhà tâm vấn cần tự hỏi, “Bước kế tiếp tôi phải làm gì?” Làm sao nhà tâm vấn có thể hoàn tất một tiến trình tâm vấn từ đầu đến cuối?
Chia tiến trình tâm vấn thành từng bước hay từng giai đoạn có phần không thực tế vì biên giới giữa các giai đoạn thường mơ hồ, hơn nữa các giai đoạn cũng có thể trùng lấp. Dù vậy, việc phân chia này có lợi ở chỗ giúp chúng ta thấy rõ diễn tiến của quá trình tâm vấn và có thể chia làm bốn giai đoạn như sau: giai đoạn giới thiệu và tìm hiểu, giai đoạn thiết định mục tiêu, giai đoạn đi vào giải pháp bằng hành động, và giai đoạn kết thúc. Cả bốn giai đoạn này có thể hoàn tất trong một lần trao đổi, nhưng thông thường được trải ra trong một thời gian dài hơn.
Giai Đoạn Giới Thiệu-Tìm Hiểu (GĐ-1)
Có ít nhất ba mục tiêu cần đạt được vào lúc khởi đầu chương trình tâm vấn. Chúng ta phải tiếp xúc với đối tượng có nhu cầu, thiết lập quan hệ với đối tượng, và tìm cách xác định nan đề đối tượng đang có.
Tiếp xúc. Hiển nhiên chúng ta không thể làm tâm vấn nếu chưa bao giờ gặp gỡ người cần giúp. Vì vậy, để khởi sự mục vụ tâm vấn, cần cho người ta biết chúng ta sẵn sàng giúp. Có thể làm việc này bằng hai cách: thông báo cho biết chúng ta muốn giúp và bày tỏ cho thấy mối quan tâm của chúng ta.
Đôi khi cần có một thông báo chính thức về mục vụ tâm vấn in trong bản tin hay chương trình của hội thánh, hay thông báo đọc trong buổi nhóm: “Mục Sư có mục vụ tâm vấn vào thứ ba và thứ năm hàng tuần. Tín hữu nào có nhu cầu xin gọi điện thoại lấy hẹn.” Cũng có thể thông báo một cách thân mật trong những dịp sinh hoạt khác: “Trong vòng các con cái Chúa ai có nan đề trong đời sống cá nhân hoặc gia đình muốn tâm sự với chúng tôi, xin đừng ngại, chúng tôi có dành thì giờ để chúng ta có thể trò chuyện trao đổi với nhau.”
Khởi đầu, lối kêu gọi này có thể không khiến người ta sắp hàng đến xin tâm vấn đâu, nhưng thông thường hơn, mục vụ tâm vấn thực sự phát triển từ những tiếp xúc thân mật với những người chúng ta gặp gỡ đâu đó hay trong hội thánh. Thí dụ như những người trẻ thường cởi mở hơn, thổ lộ nan đề cá nhân sau khi quen biết người hướng dẫn thanh niên trong dịp đi xem một trận thi đấu thể thao hay những buổi họp mặt thân mật nào khác. Lúc uống cà-phê chung hay trò chuyện trên đường về sau buổi nhóm, cũng thường là cơ hội thổ lộ nan đề mà sau đó có thể trở thành những buổi trao đổi tâm vấn chính thức. Có thể khéo léo tiếp tục câu chuyện bằng cách gợi ý như sau, “Sau 4 giờ chiều mai có thì giờ rộng rãi hơn, nếu mình trao đổi thêm chuyện này chắc sẽ rất hữu ích.” Gợi ý như thế vừa nhẹ nhàng vừa tự nhiên nhưng khá hữu hiệu để có buổi hẹn.
Thiết lập quan hệ. Lúc khởi đầu, hai điều rất quan trọng là làm cho người được tâm vấn thấy thoải mái và thiết lập quan hệ -một mối quan hệ nhẹ nhàng, tin cậy giữa cố vấn và người được tâm vấn. Khung cảnh tươi vui, yên tĩnh, không bị quấy rầy cộng thêm với một số đặc tính thích hợp của nhà tâm vấn như đã nêu lên trong chương 2, sẽ giúp cho mối tương giao xuất hiện với một khởi đầu tốt đẹp. Trong giai đoạn này, thông thường cũng sẽ nảy sinh một cảm nhận gọi là lượng định hỗ tương qua đó cả người cố vấn lẫn người được tâm vấn cùng để ý nhau rất kỹ để có những kết luận sơ khởi về mối quan hệ song phương. Nếu kết quả đánh giá này đưa đến những cảm nhận tích cực thì giai đoạn đầu tiên của mối quan hệ thực sự đã được thiết lập.
Đôi khi người cần tâm vấn thấy khó khăn đối diện với nan đề hay chia xẻ nan đề với cố vấn cho nên mở đầu thường chỉ bàn chuyện thời tiết hay những chủ đề vô thưởng vô phạt, trước khi đụng đến nan đề. Nhà tâm vấn cần biểu lộ tinh thần sẵn lòng “ở với” người cần tâm vấn để lắng nghe và đôi khi cần hỗ trợ, khích lệ đặc biệt là trong giai đoạn đầu của tiến trình tâm vấn để rồi dần dà người cần tâm vấn sẽ thổ lộ cho biết tại sao mình đến xin tâm vấn. Câu hỏi, “Tôi có thể giúp gì?” và thái độ quan tâm của nhà tâm vấn sẽ khích lệ người đó thổ lộ nan đề.
Làm sáng tỏ nan đề. Mới đầu chúng ta tưởng việc này khá dễ dàng, nghĩa là chỉ cần hỏi người có nhu cầu tâm vấn cho biết nan đề là gì rồi tìm giải pháp. Trong thực thế vấn đề thường không đơn giản như vậy. Đôi khi người ta rất ngại thổ lộ nan đề. Thường họ biết có điều gì đó làm họ bận tâm nhưng lại không xác định được. Có khi họ nêu ra nan đề nhưng về sau người cố vấn lại khám phá ra rằng vấn đề họ nói không phải là nan đề chính hay là nan đề duy nhất. Vì vậy công việc của bạn, nhà tâm vấn, là lắng nghe, quan sát, khích lệ và đôi khi góp ý hay nêu các câu hỏi ngắn để giúp làm sáng tỏ hình ảnh người đó: cá tính, nan đề, quan điểm về cuộc đời và những nỗ lực trong quá khứ của đương sự nhằm giải quyết nan đề. Những câu hỏi khai mở như thế cũng giúp người được tâm vấn cảm thấy thoải mái hơn, có cái nhìn vào nan đề rõ ràng hơn, và đôi khi có thể giải tỏa được những xúc cảm và bực dọc bị ức chế chưa được nói ra.
Trong giai đoạn này, nhà tâm vấn cũng có thể dò dẫm tìm hiểu những khía cạnh sau: Tôi có thể làm việc với người này không? Tôi có muốn thủ giúp không? Nan đề của người này có ngoài lãnh vực chuyên môn và ngoài khả năng của tôi không? Cùng lúc đó, người cần tâm vấn cũng có thể tự hỏi: Tôi có tin được nhà tâm vấn này không? Người cố vấn này có thể giúp được tôi không? Tôi có muốn cam kết tiếp tục tiến trình tâm vấn này không?
Có thể vào phần cuối của buổi gặp gỡ đầu tiên, những câu hỏi như trên có thể được nêu lên thảo luận, và nhà tâm vấn có thể nói đại khái như , “Tôi có thể giúp anh được, nhưng chúng ta cần phải có nhiều buổi trao đổi với nhau. Anh thấy sao?” Lọai thảo luận như thế gọi là sắp xếp tiến trình (structuring) để quyết định xem tiến trình tâm vấn có thể tiến hành không và nếu tiếp tục thì sẽ như thế nào.
Giai Đoạn Định Mục Tiêu (GĐ –2)
Nhiều thế kỷ trước, vua Đa-vít bày tỏ thái độ kinh ngạc về việc Đức Chúa Trời quan tâm thật sâu sắc cả đến ý tưởng và những lo lắng của những loài Ngài sáng tạo khi ông viết trong Thi 139:14, “Tôi ca ngợi Chúa, vì Chúa đã sáng tạo tôi cách đáng sợ lạ lùng.”
Hầu hết các nhà tâm vấn đều thấy ngay đối tượng của mình “ được tạo dựng rất đáng sợ lạ lùng,” với cá tính phức hợp và những lối suy tưởng nhiêu khê, phức tạp. Không một con người nào có khả năng hiểu hết về người khác mà chỉ với sự trợ giúp của Chúa, nhà tâm vấn mới có thể khởi sự hiểu được đối tượng, và cũng chỉ với sự trợ giúp từ trên cao nhà tâm vấn mới có thể giúp được người có nan đề.
Tuy nhiên điều quan trọng là chúng ta thực hành mục vụ tâm vấn trong tinh thần cầu nguyện và thái độ khiêm nhu. Cầu nguyện cho đối tượng và cho tiến trình tâm vấn trrước và sau mỗi buổi gặp mặt sẽ giúp ích rất nhiều. Cũng có nhiều nhà tâm vấn thường cầu nguyện thầm ngay trong giờ trao đổi.
Với sự trợ giúp của Chúa và sau khi đã cẩn thận lắng nghe và tìm hiểu, bạn có thể dần dần xác định được nan đề cần giải quyết. Đôi khi bạn có thể khám phá ngay nan đề sau vài phút trao đổi, nhưng cũng có lúc phải mất nhiều tuần bạn mới có thể biết đối tượng đang bị điều gì dằn vặt. Cũng có những tình huống nhà tâm vấn không hoàn toàn hiểu nan đề đã phát triển như thế nào, nhưng nếu bạn có thể hình dung khárõ nan đề là gì, bạn vẫn có thể giúp người cần tâm vấn đạt được giải pháp.
Những người mới bước vào lãnh vực tâm vấn thường lo lắng khi thấy mình không nhanh chóng tìm được cách giải quyết nan đề của đối tượng. Tâm trạng này phản ánh ý tưởng cho rằng nhà tâm vấn phải là người có câu trả lời và công tác tâm vấn giống như mối quan hệ giữa bác sĩ với bệnh nhân, qua đó bệnh nhân kê khai mọi triệu chứng và bác sĩ đưa ra phương thức trị liệu.
Trong lãnh vực tâm vấn, tiến trình không giống như thế, mà thông thường là người có nhu cầu mô tả chi tiết nan đề của mình rồi cả người đó và nhà tâm vấn cùng hợp lực tìm giải pháp. Vì khách quan, lại được trang bị, có nhiều kinh nghiệm và sáng suốt cho nên nhà tâm vấn có thể nghĩ đến những điều và những việc khả thi mà người có nan đề chưa bao giờ để tâm. Người cần tâm vấn có thể cũng phải nhìn thẳng vào những thái độ tội lỗi và chủ bại, là nguyên nhân gây ra nan đề. Cả hai cũng có thể thảo luận, tìm hiểu xem điều gì trong quá khứ đã gây ra nan đề và tìm phương giải quyết trong hiện tại. Có thể cũng cần phải xét cả những áp lực của hoàn cảnh như những khó khăn trong gia đình hay những bất ổn chính trị gây căng thẳng và làm nan đề trầm trọng hơn.
Khi cả nhà tâm vấn và đối tượng cùng hiểu rõ tình hình, thấy nan đề đã được đối phó như thế nào trong quá khứ – thành công hay chưa thành công, và rồi sẽ phải giải quyết như thế nào trong tương lai để được hữu hiệu hơn. Cả nhà tâm vấn và người được tâm vấn cần suy tìm những loại giải pháp khả thi và chọn mục tiêu cho việc giải quyết nan đề.
Mục tiêu mơ hồ thường không hữu ích cho quá trình tâm vấn. Nếu một cặp vợ chồng có nan đề hôn nhân và mục tiêu giải quyết là “để sống thuận thảo hơn,” thì không lâu họ sẽ thấy mục tiêu đó quá mơ hồ, không giúp họ tìm được phương hướng giải quyết. Tiến trình sẽ hữu hiệu hơn nếu tìm được những mục tiêu rõ ràng cụ thể. Thí dụ như họ quyết định mỗi ngày khen tặng nhau một lần hay cố gắng lắng nghe nhau trong năm phút. Đây có vẻ là những mục tiêu nhỏ nhoi, nhưng lại rất cụ thể, dễ thực hiện, cũng dễ thấy họ có đạt được hay không.
Một số nhà tâm vấn khích lệ người cần tâm vấn lập một bảng liệt kê những hành động có thể làm để thay đổi thái độ và tác phong. Ấn định cách thức và thời gian những mục tiêu này phải hoàn hành rồi xin Đức Chúa Trời giúp người đó thực hiện để đạt mục tiêu trong khoảng thời gian giữa các buổi họp tâm vấn.
Giai Đoạn Hành Động Theo Giải Pháp (GĐ-3)
Có bao giờ bạn từng quyết định sẽ thay đổi tác phong như thế nào đó nhưng rồi lại thấy mình không bao giờ khởi sự hành động đạt mục tiêu. Hầu hết chúng ta từng biết có những người ghiền thuốc lá quyết định bỏ, nhưng vẫn cứ tiếp tục hút nhiều năm sau rồi mới thực sự thôi.
Nhà tâm vấn cũng thường gặp những tình huống tương tự. Một người có nan đề đã thảo luận và quyết định nhiều giải pháp, nhưng cứ lần lữa, trì hoãn hành động. Đây không phải là điều khó hiểu. Nghĩ đến những ý hướng tốt rất dễ, nhưng quyết định hành động để đạt đến mục tiêu thường khó hơn nhiều. Vì vậy thách thức của nhà tâm vấn là làm sao khích lệ người đó hành động hoặc chấp nhận, giúp người đó cố gắng làm lại mỗi khi thất bại hay đề nghị biện pháp mới mỗi khi giải pháp cũ không kết quả và thường xuyên huớng dẫn trong quá trình người đó thực hành giải pháp.
Đôi khi có tình huống nhà tâm vấn thấy không thể thay đổi mà chỉ có thể chấp nhận hay thích ứng, thí dụ như trong trường hợp một phụ nữ chồng chết thì hiển nhiên bà không thể làm gì hơn là chấp nhận, nhưng nhà tâm vấn có thể giúp bà biết cách điều chỉnh để có thể sống trong cảnh goá bụa.
Qua tất cả những phương thức này, nhà tâm vấn Cơ đốc luôn luôn giữ mối quan tâm đối với sức khoẻ tâm linh của người có nan đề, đưa ra những hướng dẫn cho thấy trong cuộc sống rối ren nhiều khó khăn, ChúaCứu Thế có thể làm gì cứu giúp họ.
Như vậy, cả nhà tâm vấn và người được tâm vấn phải đi vào thực hành nhiều hơn là chỉ bàn suông về nan đề và giải pháp. Mỗi giải pháp cần phải được thực nghiệm và sau đó được người có nan đề đánh giá, tốt nhất là với sự trợ giúp của nhà tâm vấn. Nếu giải pháp không kết quả, cả hai cần xem xét lại nan đề, thảo luận thêm, tái đánh giá những suy nghĩ trước và thử nghiệm lại.
Giai Đoạn Kết Thúc (GĐ-4)
Khi nhà tâm vấn và người có nhu cầu đã biết rõ nan đề, đã thảo luận chi tiết, đã đưa ra được những mục tiêu có thể đạt tới và đã khởi sự tìm giải pháp thì đây cũng là lúc tiến trình tâm vấn phải kết thúc. Nếu quá trình vừa nêu lâu dài và tốt đẹp thì việc kết thúc có thể khó. Vì khó nói lời từ biệt cho nên nhà tâm vấn đôi khi cố tiếp tục tiến trình tâm vấn dù không còn cần thiết nữa. Vì vậy, khi thấy đã đến giai đoạn kết thúc, nhà tâm vấn có thể nói, “Tôi thấy chúng ta đã tiến đến giai đoạn anh/chị có thể tự giải quyết nan đề không cần tôi trợ giúp nữa.” Nói như vậy sẽ giúp người có nan đề hiểu rằng tiến trình tâm vấn sắp xong. Đôi khi cũng cần phải bàn thảo nếu việc kết thúc tiến trình này gặp khó khăn. Dù sao người có nan đề cần biết rằng “cánh cửa luôn luôn rộng mở” nếu người đó thấy việc tiếp xúc với nhà tâm vấn giúp ích cho mình. Cũng cần thảo luận để người có nan đề biết cách tự giải quyết với sự trợ giúp tối thiểu từ bên ngoài. Mục tiêu chính của tương quan tâm vấn là giúp người có nan đề đối phó hữu hiệu hơn với những khó khăn trong đời sống, vì vậy kết thúc một tiến trình tâm vấn không phải là đã xong. Kết thúc tiến trình tâm vấn chỉ là thời đìểm để người có nan đề khởi sự bước vào giai đoạn mới trong cuộc sống, trong đó những khó khăn được đối phó hữu hiệu hơn với sự trợ giúp từ Chúa.
Nhiều tuần sau khi kết thúc mục vụ tâm vấn, bạn có thể tiếp xúc với người được tâm vấn để biết tình trạng ra sao. Việc tiếp xúc này nói lên mối quan tâm chân thật sẽ giúp bạn đánh giá kết quả công tác tâm vấn của mình, cũng cho người đó cơ hội chia xẻ những diễn tiến mới trong đời sống hay nêu những thắc mắc nào xuất hiện sau khi tiến trình tâm vấn kết thúc. Mục tiêu ở đây không phải là khơi sâu tinh thần tùy thuộc hay dụ khách trở lại dịch vụ tâm vấn, nhưng chỉ là để bày tỏ tinh thần tiếp tục chăm sóc và quan tâm đến những người đã từng đến với mình.
Trong sách vở, những điều này xem ra đơn giản, dễ dàng, nhưng áp dụng trong thực hành khó hơn nhiều. Cần nhớ rằng nhà tâm vấn không một mình chịu hoàn toàn trách nhiệm về nan đề của người có nhu cầu, vì tâm vấn liên quan đến ít nhất hai người, cùng nhau cộng tác để giải quyết nan đề.
Cũng cần nhớ rằng những giai đoạn tâm vấn không luôn luôn theo trình tự. Thí dụ như việc xây dựng, củng cố quan hệ (establish rapport) trong tiến trình tâm vấn rất quan trọng không chỉ là vào lúc khởi đầu. Thường có tình trạng giao thoa giữa giai đoạn đặt mục tiêu (GĐ- 2) và giai đoạn hành động theo giải pháp (GĐ- 3).
Cuối cùng, cần phải nhận thức rằng tất cả các nan đề không nhất thiết được xử lý giống nhau. Một goá phụ bị tổn thương vì đau khổ, cần một loại tâm vấn khác hơn một thiếu niên bực dọc vì chương trình sinh hoạt thanh niên trong hội thánh tẻ nhạt. Vì vậy, người lãnh đạo Cơ-đốc cần hiểu những thể loại tâm vấn khác nhau, và đó là nội dung của chương sau.
Câu Hỏi Ôn Và Thảo Luận Chương 4: Tiến Trình Tâm Vấn Cơ Đốc
1. Thánh Phao-lô đề cập đến ba điều nào các nhà tâm vấn và được tâm vấn lưu tâm?
2. Khi trao đổi với nhà tâm vấn, người được tâm vấn có những quan ngại nào? Tại sao?
3. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, người được tâm vấn thường đối diện với những trở ngại nào? Tại sao bày tỏ cảm xúc là một thách thức?
4. Thánh Phao-lô nêu ra những phương cách nào giúp vượt qua những cảm xúc lo lắng tiêu cực?
5. Tại sao nhà tâm vấn phải ý thức được những cảm xúc của người được tâm vấn?
6. Bạn nhận xét thế nào về câu nói “Hầu hết nan đề của con người khởi sự từ tâm trí và hầu hết cũng giải quyết từ tâm trí”? Kinh Thánh dạy về điều này như thế nào?
7. Công việc chính của nhà tâm vấn là tìm tội lỗi trong đời sống người được tâm vấn và thay đổi hành vi của họ. Bạn đồng ý với câu nói trên không? Tại sao?
8. Làm thế nào để trở thành một nhà tâm vấn hữu hiệu, nhạy bén với người khác khi quan tâm đến tình cảm, suy nghĩ và hành động của họ?
Các Sách Tư Vấn Cơ Đốc