TRỌNG TÂM TƯ VẤN CƠ ĐỐC
(The Core of Counseling)
KINH THÁNH chứa đựng nhiều ví dụ về nhu cầu của con người. Kinh Thánh cho chúng ta biết về sự lo lắng, nỗi cô đơn, sự thất vọng, nghi ngờ, khổ đau, buồn chán, tình trạng bạo hành, quan hệ tình dục bất chính, sự đắng cay, nghèo thiếu, sự tham lam, bệnh tật, tình trạng căng thẳng bên trong mỗi cá nhân, và nhiều vấn đề cá nhân khác – thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy những nan đề ấy xuất hiện ngay cả trong cuộc sống của các thánh, là những nhân vật vĩ đại mà Kinh Thánh đề cập đến.
Chẳng hạn như Gióp, một người đàn ông thánh thiện, nổi tiếng, giàu có, và được trước những người đương thời với ông rất tôn trọng. Nhưng sau đó, nhiều tai họa thình lình xảy đến với ông. Ông mất đi sự giàu có và sức khỏe của mình. Tất cả con cái của ông đều chết trong một cơn bão, đẩy ông rơi tụt xuống sự đau khổ và thất vọng tột cùng. Thay vì nâng đỡ ông, vợ của ông lại chỉ trích và phàn nàn. Ba người bạn của ông lúc đầu như có ý an ủi giúp đỡ ông phần nào, nhưng sau đó thì lên án ông…, và Đức Chúa Trời dường như đã bỏ rơi ông.
Kế đó Ê-li-pha đến. Đây là một người đàn ông trẻ đã biết lắng nghe Gióp và hiểu được những tranh chiến trong lòng ông. Ê-li-pha bị Gióp chỉ trích trước những ý tốt của ông, còn bạn của Gióp - những người tư vấn không nhạy cảm đã giảng và đưa ra lời khuyên để giúp đỡ Gióp bằng những nổ lực riêng của họ. Ngược lại, Ê-li-pha thể hiện sự đồng cảm và quan tâm, một sự chấp nhận khiêm nhường để cùng hòa với hoàn cảnh của Gióp lúc đó (mà không có bất kỳ thái độ nào tỏ ra thánh thiện-hơn-người khác), một sự khích lệ để đối diện, và một sự khao khát kiên định để chỉ cho người được tư vấn – Đức Chúa Trời là Đấng cai trị duy nhất và chỉ một mình Ngài có thể giúp đỡ trong những lúc có cần. Ê-li-pha là một người tư vấn thành công ở chỗ mà những người khác đã thất bại. 1
Cách đây vài năm, cựu Chủ tịch Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ đã đánh giá rằng ngay cả ngày hôm nay, trong bốn người tư vấn thì đã có hết ba người không có hiệu quả (nghĩa là chỉ có một trong bốn người tư vấn là có hiệu quả mà thôi). Một nghiên cứu mới đây cho biết rằng hầu hết các Mục sư cảm thấy mình ở trong tình trạng thiếu sự chuẩn bị cho những trách nhiệm tư vấn của họ và hầu hết trong số họ đều không thực sự thành thạo như là những người tư vấn. 2 Một vài nghiên cứu chứng tỏ rằng đa số những người tư vấn không có hiệu quả, và có lẽ ngay cả họ cũng bị tổn hại. 3
Tuy nhiên, nhiều người khác lại rất thành công, và họ thực hiện việc tư vấn một cách rất hiệu quả. Những người này mang một cá tính đặc biệt làm nổi bật tính chân thật, sự hiểu biết, lòng yêu thương, và khả năng để đối thoại trong một tinh thần chân thành và xây dựng. Họ là những người tư vấn có kỹ năng trong việc sử dụng những kỹ thuật để giúp đỡ những người được tư vấn hướng đến những mục tiêu rõ ràng. 4
Trong chương này, chúng ta sẽ bắt đầu với việc xem xét về những mục tiêu tư vấn, thảo luận về mối quan hệ tư vấn, tóm lược một vài kỹ thuật tư vấn căn bản, để đưa ra một cái nhìn tổng quát về tiến trình tư vấn, và có một kết luận về những mục đích lý thuyết cho việc tư vấn.
NHỮNG MỤC TIÊU CỦA VIỆC HUẤN THỊ
Tại sao người ta đến để được tư vấn? Họ muốn điều gì để thành công? Nguyên nhân của bạn là gì để cố gắng giúp đỡ các vấn đề tư vấn của họ? Những câu hỏi này thật là khó. Bởi vì mỗi câu hỏi đều có thể có những câu trả lời khác nhau, tùy thuộc vào cả người được tư vấn và người tư vấn.
Những người tư vấn Cơ Đốc có thể trông đợi những khách hàng của họ đến với những vấn đề liên quan đến lời cầu nguyện, sự nghi ngờ, giáo lý, sự trưởng thành thuộc linh, hoặc là cách vi phạm tội lỗi. Tuy nhiên, một cách tổng quát, chỉ có 10% mục vụ tư vấn giải quyết được các vấn đề về tôn giáo, như những điều vừa kể. 5 Thông thường thì người ta đến khi gặp tình trạng căng thẳng trong hôn nhân, có những sự khủng hoảng, thất vọng, những mâu thuẫn bên trong cá nhân mỗi người, sự bối rối, hoặc các vấn đề khác trong cuộc sống.
Chúa Jêsus đã quan tâm đến tất cả những vấn đề như thế. Ngài tuyên bố rằng Ngài đã đến để ban cho con người cuộc sống sung mãn và hết thảy đều sẽ được hoàn tất. 6 Chắc chắn rằng trong câu Kinh Thánh nổi bật nhất của Thánh Kinh, Chúa Jêsus đã nói về mục đích của Đức Chúa Trời trong việc sai Con Ngài xuống thế gian – “hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư-mất mà được sự sống đời đời.” 7 Vì thế, Chúa Jêsus đã có hai mục đích riêng biệt: sự sống sung mãn trên đất và sự sống đời đời trên thiên đàng.
Người tư vấn theo chân Đức Chúa Jêsus-Christ có cùng những mục tiêu tốt nhất để thực hiện cho người khác – làm thế nào để có cuộc sống sung mãn và nhiều điều mà Chúa đã hứa về cuộc sống đời đời cho những người tin nhận Ngài. Nếu như chúng ta thực thi Nhiệm Vụ Lớn Lao này một cách nghiêm túc, thì chúng ta sẽ có một sự khát khao mạnh mẽ để thấy được những người được tư vấn của chúng ta trở nên những môn đồ của Đức Chúa Jêsus-Christ. Và nếu như chúng ta thực thi Lời của Chúa Jêsus một cách triệt để thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được kết quả – một cuộc sống sung mãn trọn vẹn, chỉ đến với những ai hết lòng tìm kiếm một cuộc sống nương cậy vào những sự dạy dỗ của Ngài.
Tuy nhiên, dù biết rất rõ rằng có nhiều Cơ Đốc Nhân trung tín sẽ có được cuộc sống đời đời trong thiên đàng, nhưng vẫn có những người không kinh nghiệm được một cuộc sống sung mãn ngay cả trên đất. Những người này cần sự tư vấn liên quan đến những điều gì đó khác hơn là sự rao giảng hoặc sự dạy dỗ Cơ Đốc truyền thống. Chẳng hạn như, sự tư vấn như thế có lẽ sẽ giúp người được tư vấn nhận ra những thái độ nguy hại kín giấu, hướng dẫn các cá tính tiềm ẩn cùng những cách cư xử mới, giúp họ có được những quyết định hoặc làm thay đổi cách sống của họ, hoặc chỉ cho họ biết làm thế nào để vận động sức mạnh nội lực của ai đó nhằm đối diện với sự khủng hoảng. Thỉnh thoảng sự tư vấn như thế được hướng dẫn bởi Đức Thánh Linh, có thể sự tự do của người được tư vấn làm kéo dài những sự khó chịu, những ký ức trong quá khứ, hoặc những thái độ hiện tại; và chúng làm ngăn trở người được tư vấn từng bước trưởng thành. Đối với người chưa tin Chúa, việc tư vấn như thế có thể được thực hiện như là một hình thức “rao giảng-trước” 8 giúp làm sạch một vài trở ngại cho tiến trình chuyển đổi. Vì thế, việc rao giảng và môn đồ hóa là những mục đích cuối cùng của người tư vấn Cơ Đốc, ngay cả trong trường hợp điều đó không phải là mục đích duy nhất. 9
Còn những mục đích khác là gì? Nhiều người được tư vấn chỉ có những ý niệm mơ hồ về điều mà họ muốn nhận được từ sự tư vấn – ngoại trừ việc chỉ để hiểu chính mình hoặc cảm thấy tốt hơn. Nếu như những người tư vấn của họ đều không rõ ràng, liệu pháp chữa bệnh dường như không có mục đích và không hiệu quả. Những mục đích tư vấn sẽ đặc biệt phụ thuộc vào những vấn đề của người được tư vấn một cách toàn diện, thế nhưng bất kỳ một danh sách nào dường như cũng đều bao gồm ít nhất những điều sau:
1. Nhận thức cá nhân. Để hiểu một ai đó thường là bước đầu tiên trong quá trình chữa lành. Nhiều vấn đề do chính chúng ta đặt ra giới hạn, nhưng một người đang được giúp đỡ có thể thất bại trong việc nhận ra mình đã thiên vị hoặc với những thuận cảnh, hoặc với thái độ tiêu cực, hay với cách cư xử đầy tự ti. Ví dụ, hãy xem xét một người hay phàn nàn: “chẳng có ai thích tôi cả,” nhưng nhưng họ lại thất bại để nhận thấy rằng sự phàn nàn của họ gây khó chịu cho nhiều người khác, và đó là nguyên nhân chính dẫn đến bị từ chối. Mục đích tư vấn là vì một mục tiêu cụ thể nào đó, là người giúp đỡ nhận thức một cách tỉnh táo để trợ giúp những người đang được giúp đỡ nhận được một hình ảnh thật về điều đang diễn ra bên trong họ và trong thế giới xung quanh họ.
2. Sự giao tiếp. Chúng ta đều biết rất rõ rằng có nhiều vấn đề hôn nhân liên quan đến sự gãy đỗ trong sự giao tiếp giữa vợ-chồng với nhau. Điều đó như là một phần không thể thiếu trong hôn nhân. Nhiều người không thể hoặc không vui lòng để giao tiếp. Người được tư vấn cần được khích lệ để nói về những cảm giác, suy nghĩ, và thái độ của mình một cách rõ ràng và chính xác. Sự giao tiếp như thế liên quan một cách rõ ràng đến việc thể hiện chính mình và nhận được những bài học từ người khác một cách hiệu quả.
3. Việc học và thay đổi cách cư xử. Không phải là tất cả, nhưng hầu như cách cư xử của chúng ta có thể thay đổi nhờ học hỏi. Vì thế việc tư vấn nhằm mang đến sự giúp đỡ cho những người được tư vấn thiếu khả năng học biết, có thể học hỏi nhiều cách áp dụng hiệu quả hơn. Việc học như thế có được là nhờ sự dạy dỗ, suy gẫm của người tư vấn, hoặc qua đời sống hay sự từng trải về những thử thách và lầm lỗi của của một người nào đó. Thỉnh thoảng việc phân tích những sai trật của bản thân khi gặp phải sự thất bại cũng là điều cần thiết. Kế đến, người được tư vấn phải được khích lệ để cố gắng nhiều hơn nữa.
Giả sử như, bạn đang tư vấn cho một người đàn ông trẻ tuổi cảm thấy thiếu tự tin trong việc hẹn hò. Cần phải học hỏi cách cư xử cho một cuộc hẹn hò. Nếu như bạn đọc lại đoạn trước, bạn sẽ có thể nghĩ ra những cách để giúp đỡ người được tư vấn đang có vấn đề - sợ hãi việc hẹn hò.
4. Tính thực tế. Một vài tác giả bị căng thẳng về tầm quan trọng của việc giúp đỡ những cá nhân học cách để đạt được và duy trì tiềm năng tối ưu của ai đó. Điều này được gọi là “khả năng thực tế” và được một vài người tư vấn đề suất như là một mục đích dành cho mọi người – bất kể họ có đang ở trong sự tư vấn hay không. Đối với Cơ Đốc Nhân, có thể thay thế một thuật ngữ thích hợp là “Đấng Christ thực hữu” điều đó cho thấy mục đích trong cuộc sống được hoàn tất trong Đấng Christ, việc phát triển tiềm năng lớn lao nhất của một người được thông qua năng quyền của Đức Thánh Linh là Đấng mang lại cho chúng ta sự trưởng thành thuộc linh. 10
5. Sự ủng hộ. Thường thì người ta có thể gặp những mục đích kể trên và thực hiện chức năng một cách hiệu quả, ngoại trừ đối với những giai đoạn nhất thời của sự căng thẳng bất thường hoặc khủng hoảng. Những yếu tố này có thể trở nên hữu ích trong một giai đoạn nhất định tạo sự ủng hộ, khuyến khích, và “chịu đựng gánh nặng” cho đến khi họ có thể tái vận động những nguồn lực về thể chất và thuộc linh của họ để đối phó với các vấn đề trong cuộc sống một cách hiệu quả.
6. Sự trọn vẹn thuộc linh. Trong cuốn sách giáo khoa bàn về sự tư vấn, Howard Clinebell đã viết, trọng tâm của mục vụ chăm sóc và tư vấn là giúp đỡ người khác giải quyết những nhu cầu thuộc linh của họ và tìm ra sự trọn vẹn thuộc linh. 11 Mặc dù việc đề cập đến vấn đề tôn giáo thỉnh thoảng có thể là một cách mà người được tư vấn dùng để che giấu những vấn đề về tâm lý-cá nhân, và ngược lại. Những người được tư vấn thường thất bại để thấy ra hoặc chấp nhận có một tiêu chuẩn thuộc linh đối với tất cả các nan đề liên hệ đến con người. 12 Nhiều người có thể đồng ý với kết luận được Carl Jung trích dẫn nhiều lần – những người trên ba mươi lăm tuổi trong số những bệnh nhân của ông, thì “không có vấn đề của một người mà sau rất nhiều phương cách cuối cùng vẫn không tìm ra cho mình một cái nhìn mang tính tôn giáo về cuộc sống.” 13 Vì thế, người tư vấn Cơ Đốc trở nên một người lãnh đạo thuộc linh để hướng dẫn sự tăng trưởng thuộc linh, giúp đỡ những người được tư vấn giải quyết những xung đột thuộc linh, và làm cho họ có thể tìm thấy niềm tin và nhận chân những giá trị đích thực. Thay vì tạo sự đối thoại giữa người tư vấn và người được tư vấn, Cơ Đốc Nhân hết lòng tìm kiếm vì một “trialogue” (sự hiện hữu của Chúa), bởi họ nhận thức được rằng sự thực hữu của Đức Chúa Trời là trung tâm để việc giúp đỡ người khác được hiệu quả. 14
Sự tư vấn rất hiếm khi hiệu quả nếu như những người tư vấn áp đặt các mục đích riêng của họ lên những khách hàng. Sẽ tốt hơn nếu như người tư vấn và người được tư vấn cùng nhau sắp đặt những mục đích. 15 Những mục đích như thế nên đặc biệt rõ ràng (hơn là mơ hồ), thực tế, và (nếu có một vài điều) đã được thiết lập trong một vài chuỗi liên kết hợp lý đến nỗi giúp ta nhận biết những mục đích đã được thực hiện trước hết và, có lẽ, bất kể trong bao lâu.
MỐI QUAN HỆ TRONG SỰ HUẤN THỊ
Nhiều người miễn cưỡng đi đến để được tư vấn. Thật không dễ dàng cho bất kỳ ai trong chúng ta chấp nhận rằng mình cần được giúp đỡ. Một vài cá nhân khiếp sợ những người tư vấn, hoặc sợ hãi về điều mà những người tư vấn có thể hỏi. Những người khác có thể có những vấn đề như quá lúng túng hoặc quá riêng tư để thảo luận mà không hề có cảm giác không thoải mái. Thỉnh thoảng các Cơ Đốc Nhân cảm thấy rằng họ không nên có quá nhiều các vấn đề, vì thế nhu cầu đối với sự tư vấn được nhìn nhận như là một dấu hiệu cho thấy sự thất bại cá nhân và thuộc linh.
Một người tư vấn giỏi nhận thức được những điều không chắc chắn và cố gắng để giúp đỡ những người được tư vấn thư giãn. Điều này có thể hoàn tất bởi sự tư vấn trong một “xu hướng chữa lành” 16 nơi mà người được tư vấn cảm thấy thoải mái và là nơi có một vài sự chểnh mảng và gián đoạn. Điều này có thể là trong một văn phòng hoặc một trung tâm tư vấn, nhưng sự giúp đỡ hiệu quả có thể đạt được hầu như ở bất kỳ nơi đâu. Đối với một vài người, một góc im lặng của một nhà hàng nào đó đôi khi có thể ít đe dọa hơn cách thức gặp gỡ trịnh trọng tại một văn phòng tư vấn.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là xác định vị trí về mối quan hệ giữa người giúp đỡ và người được tư vấn. Nhiều người tư vấn có thể đồng ý với tác giả, người đã gọi mối quan hệ này là “trung tâm của việc giúp đỡ người khác.” 17
Làm thế nào để liệu pháp chữa lành mối quan hệ này được xây dựng? Cách đây nhiều năm, trong một cuộc nghiên cứu kéo dài bốn năm với những bệnh nhân tại bệnh viện và do những người tư vấn khác nhau, đã phát hiện ra rằng các mối quan hệ phát triển và những bệnh nhân được cải thiện khi những liệu pháp chữa lành cho thấy những mức độ cao về sự thân ái, tính chân thật, và hiểu biết sự đồng cảm chính xác. 18 Khi người tư vấn thiếu đi những phẩm chất tư vấn này, những bệnh nhân trở nên trầm trọng hơn. Tất nhiên điều quan trọng là sự nhạy cảm và việc sử dụng bất kỳ những kỹ thuật nào mà bạn có thể sắp đặt những lời tư vấn cách dễ chịu, thế nhưng trọng tâm của việc giúp đỡ cho mối quan hệ có vẻ như tập trung vào những đặc điểm của người tư vấn.
1. Sự thân ái. Từ ngữ này mang nhiều hàm ý liên quan đến sự chăm sóc, hoặc có được một sự quan tâm thành thật, bất chấp những hành động hoặc quan điểm của ai đó vẫn không làm ngột ngạt sự quan tâm từ những lời tư vấn. Chúa Jêsus đã thể hiện điều này khi Ngài gặp người đàn bà bên giếng nước. Những phẩm hạnh của người đàn bà này có thể là thấp hèn, và Ngài chắc chắn chẳng bao giờ tha thứ cho lối sống tội lỗi ấy. Thế nhưng Chúa Jêsus vẫn tôn trọng người đàn bà này và Ngài đối xử tử tế cũng như xem trọng giá trị bản thân nàng. Sự trìu mến, thái độ chăm sóc của Ngài đều biểu lộ rõ ra ở bất kỳ nơi nào Ngài đi đến.
2. Tính chân thật. Người tư vấn chân thật là “vì thật sự” – là một người cởi mở và thành thật, tránh đi sự giả tạo, gượng ép hay như đang trong một vai diễn cao siêu nào. Tính chân thật ám chỉ đến sự bộc phát tự nhiên chứ không phải là sự bốc đồng bất chợt nào, và sự chân thật cũng không có cảm giác đối đầu mạnh mẽ nào. Điều này có nghĩa là người giúp đỡ tự mình phải sâu sắc – không nghĩ hoặc cảm xúc một điều và lại nói một điều khác.
3. Sự thông cảm. Điều mà người được tư vấn nghĩ là gì? Làm thế nào để người được tư vấn thật sự cảm thấy mình như đang trải qua? Những giá trị, niềm tin, những mâu thuẫn nội tâm, và những nỗi đau của người được tư vấn là gì? Một người tư vấn giỏi thì rất nhạy cảm đối với những vấn đề này, có thể hiểu được chúng, và với sự hiểu biết này việc sử dụng ngôn từ và những cử chỉ để giao tiếp đối với người được tư vấn rất có hiệu quả. Khả năng để “cảm nhận được” người được tư vấn là điều mà chúng ta nhắm đến bằng cách hiểu và cảm thông một cách chính xác. Điều đó có thể giúp người khác, ngay cả khi chúng ta không hiểu hoàn toàn, thế nhưng người tư vấn có thể thông cảm (đặc biệt gần với bước khởi đầu việc tư vấn) thì hầu như có thể mang lại hiệu quả như là một người giúp đỡ-người khác.
Mặc dù sự thân ái, tính chân thật, và sự thông cảm nằm trong số những thuộc tính được đề cập một cách thường xuyên nhất về một người tư vấn giỏi, còn có những đặc điểm quan trọng khác. Chẳng hạn như những người giúp đỡ hiệu quả có xu hướng tự giải quyết được các vấn đề riêng của họ. Chúng tự do liên hệ với nhau trong những mâu thuẫn không đổi, sự bấp bênh, hoặc những kiềm hãm mang tính cá nhân. Người tư vấn hiệu quả cũng phải có lòng thương xót, quan tâm đến người khác, tỉnh táo đối với những cảm xúc và động cơ riêng của mình, tự-tiết lộ hơn là tìm cách che đậy, đáng tin cậy, được yêu thích, và hiểu biết về lãnh vực tư vấn. Cơ Đốc Nhân có thể tóm lược tất cả những điều này bằng cách tuyên bố rằng cuộc sống của người tư vấn phải thể hiện cách hiển nhiên những bông trái Thánh Linh 19: sự vui-mừng, bình-an, nhịn-nhục, nhơn-từ, hiền-lành, trung-tín, mềm-mại, tiết-độ, và điều chắc hẳn là quan trọng nhất – lòng yêu-thương. 20
Điều này đã được một cựu chủ tịch Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ nhấn mạnh, ông gọi lòng yêu thương là “không thể so sánh được – là liệu pháp tâm lý vĩ đại ... là một thứ gì đó mà tâm thần học chuyên ngành không thể tạo ra, không thể điều chỉnh được, mà cũng không giải phóng được.” 21 Một tác giả cho rằng – Cơ Đốc Giáo dường như đặt ra một tiêu chí để dẫn một đời sống đi đến chỗ hoàn toàn đặt nền tảng trên tình yêu, và nhờ đó có thể giúp ích trong những lúc mà sự tư vấn thế tục thất bại? Điều này gây nên một sự suy nghĩ – khiêu khích sự thách thức cho người tư vấn Cơ Đốc: nền tảng để giúp đỡ đó là lòng yêu thương – qua chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Trời thương xót những người thiếu thốn và cầu nguyện để Ngài giúp chúng ta có lòng yêu thương hơn nữa.
Đối với một vài người thì sự kinh nghiệm về lòng yêu thương là tất cả những gì mà họ cần để đem lại sự thay đổi, nhưng đối với nhiều người khác thì đó là điều cần nhiều hơn nữa. Cách đây nhiều năm một nhà tâm thần học nổi tiếng về trẻ em đã viết một cuốn sách có đề tựa: Tình Yêu-thương Không Đủ. Thường thì có một yêu cầu về kỷ luật, cấu trúc, và những ảnh hưởng về liệu pháp chữa bệnh khác. 22 Người giúp đỡ Cơ Đốc hữu hiệu tìm kiếm việc phát triển các mối quan hệ tư vấn đặt nền tảng trên tình yêu, đồng thời cũng phải phấn đấu để trở nên thành thạo về kiến thức và biết sử dụng những kỹ thuật tư vấn cơ bản.
NHỮNG KỸ THUẬT HUẤN THỊ
Trong nhiều lãnh vực, người tư vấn và người được tư vấn trở nên bạn bè thân thiết và cùng nhau làm việc để giải quyết vấn đề. 23 Tuy nhiên, không giống như các cuộc thảo luận bình thường giữa những người bạn, mối quan hệ giúp đỡ này là một sự mô tả đặc biệt bởi một chủ đích rõ ràng – đó là việc giúp đỡ người được tư vấn. Những nhu cầu của người giúp đỡ phần nhiều còn được thấy ở những nơi khác nữa, và người giúp đỡ không phụ thuộc vào người được tư vấn về tình yêu thương, sự khẳng định, hoặc sự giúp đỡ. Những người tư vấn đặt những mâu thuẫn riêng của họ bên cạnh hầu nhờ đó nhận thức được những nhu cầu người được tư vấn, và giao tiếp với sự hiểu biết cùng sự vui lòng để giúp đỡ.
Không có công thức giản đơn nào để có thể tóm lược thể nào sự giúp đỡ này được trao ban. Quá trình ban tặng-sự giúp đỡ có thể rất phức tạp và không dễ để tóm lược trong một vài đoạn. Vì thế, có một vài kỹ thuật căn bản đã được sử dụng trong hầu hết những tình huống tư vấn.
1. Chăm chú. Người tư vấn cần phải cố gắng đem lại sự chú tâm hoàn toàn cho người được tư vấn. Điều này được thực thi qua (a) sự giao tiếp bằng mắt, nhưng không nhìn chằm chằm như là một cách để tóm lấy sự quan tâm và sự hiểu biết; (b) dáng điệu thì nên được thư giãn hơn là căng thẳng, và sự học hỏi thường liên quan đến người được tư vấn; và (c) những cử chỉ thì phải tự nhiên nhưng không kiểu cách hoặc sao lãng. Người tư vấn nên lịch sự, nhã nhặn, tử tế, và tích cực tận tuỵ vì có động cơ hiểu biết rõ rệt.
Trong quá trình tư vấn, bạn cần nhận ra sự mệt mõi, thiếu kiên nhẫn, sự sao lãng của mình vì các vấn đề khác, sự mơ màng, hoặc vì thiếu nghỉ ngơi có thể ngăn trở bạn chú tâm cẩn thận đối với người được tư vấn. Người giúp đỡ đòi hỏi công việc mà bao hàm cả tính nhạy cảm, thể hiện tính chân thật của việc chăm sóc, và sự tỉnh táo đối với điều mà người được tư vấn có thể đang cố gắng để giao tiếp.
2. Lắng nghe. Điều này liên quan nhiều hơn đến sự bị động hoặc thiếu tập trung chú ý đối với những điều người khác nói. Hiệu quả của việc lắng nghe là một quá trình tích cực, liên quan đến:
• Năng lực để gạt sang một bên những mâu thuẫn, thành kiến, và những mối bận tâm riêng của bạn, vì thế bạn có thể tập trung vào điều mà người được tư vấn đang đối thoại.
• Tránh đi những sự thể hiện bằng lời nói hoặc bằng lời nói thiếu tế nhị bày tỏ sự không tán thành hoặc phê phán về điều đang nói, ngay cả khi nội dung là sự chỉ trích.
• Sử dụng bằng cả mắt lẫn tai của bạn để khám phá các thông điệp đến từ giọng nói, ngữ điệu, những cử chỉ, những thể hiện trên khuôn mặt, và những dấu hiệu khác không bằng lời nói.
• Không chỉ lắng nghe điều mà người được tư vấn nói, mà còn phải chú ý đến ý mà họ muốn nói.
• Kiên nhẫn đợi chờ trong những thời khắc im lặng hoặc rơi lệ khi người được tư vấn tập trung mọi cảm xúc, nhằm chia sẻ một điều đau đớn hoặc bình tâm để thu thập những sự suy nghĩ của người được tư vấn, và lấy lại sự bình tĩnh.
• Khi người được tư vấn nói, hãy nhìn thẳng vào họ nhưng không nên nhìn chằm chằm vào họ hoặc đảo mắt nhìn quanh quẩn đâu đó khắp phòng.
• Nhận thức rằng bạn có thể chấp nhận người được tư vấn cho dù bạn có thể không tán thành những hành động, phẩm giá, hoặc niềm tin của họ. Chúa Jêsus đã dung nhận người đàn bà phạm tội ngoại tình mặc dù Ngài không chấp nhận cách cư xử của nàng. 24 Điều này có thể có ích nếu như bạn cố gắng tưởng tượng chính mình đang ở trong vị trí của người được tư vấn, và nổ lực để thấy được nhiều điều từ cách nhìn của người được tư vấn.
Thật là dễ để lờ đi tất cả điều này, hãy để tâm trí của bạn lang thang đâu đó (đặc biệt là nếu như câu chuyện của người được tư vấn nhàm chán hoặc được nhắc đi nhắc lại), hoặc trượt sâu vào cuộc nói chuyện và đưa ra lời khuyên. Khi điều này xảy ra, người được tư vấn không cảm thấy mình hiểu được điều gì, và họ thường miễn cưỡng để bày tỏ những nỗi đau một cách thành thật hoặc bộc bạch một cách chi tiết. Những người tư vấn nói nhiều có thể đưa ra lời khuyên tốt nhưng hiếm khi họ biết lắng nghe và ngay cả dường như ít bắt kịp. Trong những tình huống như thế, những người được tư vấn thường cảm thấy mình không được hiểu. Ngược lại, sự lắng nghe tích cực là một cách để nói với những người được tư vấn “Tôi thật sự thú vị và quan tâm một cách thành thật.” Khi chúng ta không lắng nghe nhưng lại cố gắng thay vì tư vấn bằng cách nói, điều này thường bộc lộ sự không an toàn hoặc thiếu khả năng của người tư vấn để có thể giải quyết sự sợ hãi, sự mơ hồ, hoặc những chủ đề mang tính xúc động.
3. Đáp ứng. Không nên khẳng định rằng người tư vấn chỉ cần lắng nghe và không làm điều gì khác. Chúa Jêsus là Người biết lắng nghe tốt (xem xét thời gian của Ngài trước sự bối rối của hai môn đồ trên đường về làng Em-ma-út), nhưng sự giúp đỡ của Ngài cũng được bày tỏ bởi hành động và những sự đáp ứng cụ thể bằng lời nói.
Hướng dẫn là một kỹ năng mà người tư vấn trực tiếp hướng đến một cách tế nhị trong cuộc đàm thoại. “Điều gì đã xảy ra tiếp theo?” “Hãy nói với tôi điều mà bạn muốn nói . . . ?” – là những câu hỏi ngắn gọn nhằm có thể dẫn cuộc thảo luận đi trong sự hướng dẫn mà sẽ đem lại thông tin hữu ích.
Sự phản chiếu là một cách để cho những người được tư vấn biết rằng chúng ta “với họ” có đủ khả năng để làm cho họ có thể cảm nhận hoặc suy nghĩ được. “Bạn phải cảm thấy . . . ,” “Tôi chắc rằng nó rất nhàm chán,” “Nó phải vui cơ” nhằm phản ánh được điều đang diễn ra trong việc tư vấn. Hãy cẩn thận không phản ánh điều gì sau mỗi lời nhận định; hãy thực hiện điều đó theo một chu kỳ. Cố gắng không lặp lại lời nói nhiều lần hoặc nhắc lại điều mà người được tư vấn nói. Điều đó có thể làm người được tư vấn khó chịu. Hãy kiềm chế bớt sự nhiệt tình để bắt đầu hầu như ở mỗi câu bằng một cụm từ rập khuôn như là “Bạn phải nghĩ . . . ” hoặc “Tôi nghe bạn nói . . . ” Một sự tóm lược về điều đang diễn ra theo từng chu kỳ ngắn gọn có thể là một cách để phản chiếu và kích thích người được tư vấn phấn đấu hơn. Người tư vấn có thể tóm lược những cảm giác (“những cảm giác đau đớn”) và/hoặc những chủ đề chung về điều được nói đến (“từ tất cả những điều có vẻ như bạn đã có được một chuỗi đầy đủ về các sự thất bại”). Bất kỳ khi nào bạn nhận xét điều gì, hãy để cho người được tư vấn có thời gian và cơ hội trả lời về điều mà bạn đã nói.
Tra hỏi, nếu hoàn tất một cách bài bản, thì có thể giải quyết được nhiều thông tin hữu ích. Những câu hỏi tốt nhất là những câu hỏi yêu cầu phải có ít nhất một hoặc hai câu trả lời (ví dụ, “Hãy nói cho tôi nghe về cuộc hôn nhân của bạn.” “Những điều gì làm cho bạn không hạnh phúc?”) tốt hơn là những câu hỏi có thể được trả lời trong một từ (“Bạn đã lập gia đình chưa?” “Bạn không hạnh phúc à?” “Bạn bao nhiêu tuổi rồi?”). Bắt đầu từ những người tư vấn có hướng hỏi nhiều câu hỏi hơn là những người tư vấn có kinh nghiệm, và khi hỏi quá nhiều có thể gây trở ngại cho cuộc đàm thoại, thông thường các sinh viên được hướng dẫn để hỏi một vài câu hỏi. Cũng vậy, những câu hỏi bắt đầu với chữ Tại sao thường nên tránh đi. Những loại câu hỏi này như có hàm ý phán xét hoặc chúng kích thích các cuộc thảo luận mang tính tri thức, dong dài, làm cho người được tư vấn có hướng giữ chặt những cảm giác thật và những nỗi đau của mình.
Đối đầu không giống như một sự công kích hay phán xét người khác trong vòng lẩn quẩn. Khi chúng ta đối đầu, chúng ta nói trình bày với người được tư vấn một vài ý tưởng mà rất có thể họ không thấy được. Những người được tư vấn có thể đối diện với nhiều tội lỗi trong cuộc sống, những thất bại, hành động thiếu nhất quán, những hối tiếc, những quan điểm nguy hại, hoặc tự đánh mất chính mình. Sự đối đầu được hoàn tất cách tốt nhất bằng tấm lòng biết yêu thương, tế nhị, và không phán xét.
Thỉnh thoảng trước sự đối đầu, những người được tư vấn đáp ứng bằng thái độ ăn năn và kinh nghiệm được ý nghĩa của sự tha thứ. Tuy nhiên, thường thì sự đối đầu mang lại sự phản đối, lỗi lầm, gây đau đớn, hoặc giận dữ. Thật là quan trọng để những người được tư vấn dùng lời nói để đáp ứng với sự đối đầu của bạn. Hãy cho họ có thời gian để thảo luận nhiều hơn nữa về những cách ứng xử.
Một số Cơ Đốc Nhân cho rằng sự tư vấn và sự đối đầu là những thuật ngữ đồng nghĩa. Điều này không được sự ủng hộ cả trong Kinh Thánh cũng như về tâm lý học. Sự đối đầu là rất quan trọng và thỉnh thoảng gây khó khăn cho việc tư vấn, thế nhưng nó không chỉ là kỹ năng có thể đã được sử dụng trong việc giúp đỡ người khác.
Sự thông báo liên quan đến việc nói cho người cần thông tin biết về các sự kiện. Cần cố gắng tránh đi việc nói quá nhiều thông tin cùng một lúc, phải rõ ràng, và nhớ rằng khi người ta đang đau đớn, họ chỉ đáp ứng tốt nhất những thông tin có liên quan đến các nhu cầu hoặc sự quan tâm sâu sắc của họ. Loại thông báo này là một phần chung chung, được chấp nhận một cách rộng rãi trong sự tư vấn; còn việc đưa ra lời khuyên thì có khả năng tranh luận nhiều hơn.
Những người đưa ra lời khuyên thường không có đủ kiến thức về tình huống có thể đem lại những lời khuyên thích đáng, việc họ đưa ra lời khuyên khích lệ người được tư vấn có tính độc lập, và trong trường hợp lời khuyên chứng tỏ là không có cơ sở – sau đó, người tư vấn cảm thấy có trách nhiệm trong việc đem lại một sự chỉ dẫn tồi. Bất kỳ khi nào bạn được hỏi để đưa ra lời khuyên hoặc thiên về việc đưa ra lời khuyên, hãy làm cho chắc chắn rằng bạn đã được thông báo kỹ càng về tình huống ấy. Có phải bạn đã có đủ thông tin và kinh nghiệm để khuyên lơn người khác một cách thành thạo chăng? Kế đến, bạn hãy hỏi chính mình về điều có thể là những kết quả cuối cùng của việc đưa ra lời khuyên. Cũng giống như việc giúp cho người được tư vấn có tính độc lập hơn? Bạn có thể giải quyết những cảm giác có thể đến với bạn, nếu như lời khuyên của bạn bị từ chối hoặc được chứng tỏ là sai không? Sau đó, nếu như bạn đưa ra lời khuyên, hãy đưa ra lời khuyên dưới hình thức một lời đề nghị thăm dò, rồi cho người được tư vấn có thời gian để phản ứng hoặc nhận định về lời khuyên của bạn, và theo dõi để thấy được tầm quan trọng của lời khuyên.
Sự diễn giải liên quan đến sự giải thích cho người được tư vấn điều mà họ hành xử hoặc những khả năng có thể xảy ra các biện pháp khác. Điều này là một kỹ năng chuyên môn có tiềm năng lớn lao đối với việc làm cho những người được tư vấn có thể nhận ra chính mình và thấy những tình huống của họ rõ ràng hơn. Thế nhưng những sự diễn giải cũng có thể gây tác hại, đặc biệt nếu như chúng được tỏ ra trước khi người được tư vấn có thể giải quyết vấn đề một cách đầy xúc động, hoặc nếu như sự diễn giải sai trật. Nếu như bạn bắt đầu nhận thấy những lời giải thích có tác dụng đối với các vấn đề hoặc những hành động của người khác, hãy tự hỏi chính mình nếu như người được tư vấn đã sẵn sàng cả về mặt kiến thức lẫn cảm xúc để giải quyết một vấn đề cách khôn ngoan, bạn cần giữ các thuật ngữ đơn giản khi diễn giải, giới thiệu những sự diễn giải của bạn theo như cách thử nghiệm (ví dụ, “Nó có thể là . . . ?”), và dành thời gian để người được tư vấn đáp ứng. Khi bạn thảo luận sự diễn giải, sự hiểu biết của người được tư vấn thường sẽ tinh nhanh hơn và họ có thể đoán trước được một vài điều về hành động của người tư vấn.
Sự ủng hộ và khuyến khích là các phần quan trọng trong bất kỳ tình huống tư vấn nào, đặc biệt là khi bắt đầu. Khi người ta có nhiều nhu cầu và nhiều mâu thuẫn, họ có thể nhận được sự ích lợi từ trạng thái ổn định và sự chăm sóc từ phía người có sự thông cảm thể hiện qua việc chấp nhận và đem lại sự tái bảo đảm. Đây là điều đang đi lên hơn là bị đè nén. Sự ủng hộ bao gồm việc hướng dẫn người được tư vấn tích lũy được năng lực thuộc linh và các biện pháp tâm lý, hành động khích lệ, và sự giúp đỡ cho bất kỳ các vấn đề nào hoặc cho những sự thất bại nào xảy đến cũng đều giống như là một kết quả của hành động đó.
4. Sự giáo huấn. Tất cả những kỹ thuật này là những hình thức đặc biệt của việc giáo dục tâm lý. Người tư vấn là một nhà giáo dục, giáo dục bằng sự dạy dỗ, làm gương, và bởi sự hướng dẫn, người được tư vấn học tập kinh nghiệm để đối diện với các vấn đề trong cuộc sống. Giống như một ít các hình thức giáo dục cá nhân khác, sự tư vấn sẽ có hiệu quả hơn nhiều khi các cuộc thảo luận cụ thể hơn là thực hiện cách mơ hồ, và xoáy vào trọng tâm trong những tình huống cụ thể (“Làm thế nào tôi có thể kiểm soát được tính tình của tôi khi bị vợ mình chỉ trích?”) sẽ hiệu quả hơn là dựa trên những mục tiêu không rõ ràng (“Tôi muốn cuộc sống của tôi được hạnh phúc hơn”).
Một dụng cụ học tập đầy uy lực chính là sự đáp ứng tức thì. Điều này liên quan đến khả năng của người tư vấn, và khi người được tư vấn thảo luận một cách cởi mở và thẳng thắng về điều đang xảy ra trong mối quan hệ “nhanh chóng” ở đây-và-bây giờ. Chẳng hạn như, có thể một người nào đó nói rằng “Tôi cảm thấy rất chán ngán bạn trong lúc này”, hoặc “Tôi sẽ giận vì tôi nghĩ bạn không lắng nghe tôi nói.” Thái độ chân thành như thế, những lời trình bày chi tiết như thế cho phép những cá nhân bày tỏ và giải quyết những cảm xúc trước khi chúng hình thành và làm ray rứt. Những đáp ứng tức thì cũng giúp cho những người được tư vấn (và những người tư vấn) hiểu rõ hơn về những hành động của mình ảnh hưởng đến những người khác thể nào và người khác đáp ứng ra sao đối với các mối quan hệ đầy cảm xúc trong từng cá nhân. Việc hiểu biết này là một lãnh vực giáo huấn quan trọng của sự tư vấn.
5. Sự đổ đầy. Những người tư vấn giỏi không phải là những người hoài nghi không tin mọi thứ mà người được tư vấn nói, thế nhưng thật là khôn ngoan để nhớ rằng không phải lúc nào những người được tư vấn cũng nói cho người tư vấn biết toàn bộ câu chuyện và về điều mà họ thật sự muốn hoặc cần đến. Thỉnh thoảng một người được tư vấn dè dặt trình bày thái quá một vấn đề, bỏ qua những chi tiết có chiều hướng buộc tội hoặc tiềm ẩn nguy cơ làm ai đó xấu hổ. Nhưng thường thì những người được tư vấn thất bại để nhận thấy các vấn đề của họ một cách bao quát. Đôi khi họ đến để được giúp đỡ cho một vấn đề thế nhưng họ lại thất bại để thấy hoặc miễn cưỡng để nói ra các vấn đề khác rộng hơn.
Vì thế, khi bạn thực hiện việc tư vấn, hãy cố gắng lược bỏ bớt khỏi tâm trí các từ ngữ của người được tư vấn. Và tìm hiểu xem : Người được tư vấn thật sự đang hỏi điều gì? Người này thật sự muốn gì từ nơi chúng ta? 25 Phải chăng còn có những vấn đề khác hơn những vấn đề đang được đề cập đến không? Thỉnh thoảng người ta đề cập về một vấn đề, thế nhưng thật sự họ lại có một chút khao khát muốn thay đổi. Thay vào đó họ trông chờ nhận được nơi người khác một cái nhìn thông cảm, chú ý, tinh thần phấn chấn, hoặc có được cách để thoát khỏi một tình huống không vui nào đó. Khi bạn lắng nghe, bạn bắt đầu nghi ngờ những động cơ ẩn ý này, và thường thì bạn nhận thức được chúng bằng trực giác của mình chớ không phải bởi người được tư vấn.
Sẽ có những lúc bạn muốn nói đến các vấn đề này và sẽ nói về chúng trong khi tư vấn. Người tư vấn không tìm cách để thăm dò những vấn đề mới hoặc cố ép những người được tư vấn phải xem xét những chủ đề mà họ không muốn thảo luận. Thế nhưng công việc của bạn sẽ có hiệu quả hơn nếu như bạn học cách lắng nghe với sự nhạy bén và cố gắng không chấp nhận những thứ có giá trị trước mắt.
Tất cả điều này một lần nữa cho thấy nhu cầu của người tư vấn là sự khôn ngoan và sáng suốt. Một số người đã từng trải điều này, nhưng nhiều Cơ Đốc Nhân biết rằng sự nhạy bén thường có được khi chúng ta cầu nguyện, cầu xin sự khôn ngoan, được hướng dẫn, và có nhận thức chính xác đến từ Đức Thánh Linh.
QUÁ TRÌNH HUẤN THỊ
Sự tư vấn không phải là một quá trình từng-bước-một như làm một cái bánh hoặc thay một lốp xe. Mỗi người được tư vấn phải thống nhất về các vấn đề, về thái độ, giá trị, sự mong đợi, và những kinh nghiệm với nhau không như bất kỳ ai khác. Người tư vấn (các vấn đề, thái độ, giá trị, sự mong đợi, và những kinh nghiệm riêng của người tư vấn cũng phải được đề cập đến trong tình huống tư vấn) giúp cho mỗi cá nhân một chút gì thành công khác. Khóa tư vấn sẽ khác nhau đối với từng mỗi người.
Tuy nhiên, trong mỗi mối quan hệ tư vấn, có một vài bước hoặc cụm từ xuất hiện, một ít trong số đó có thể được nhắc đi nhắc lại khi các vấn đề được xem xét và lại tiếp tục được xem xét nữa.
1. Sự Liên lạc. Điều này liên quan đến việc khởi xướng, gây dựng, và duy trì mối quan hệ giữa người tư vấn và người được tư vấn. Khi người được tư vấn bắt đầu bộc bạch, người tư vấn cần lắng nghe một cách chăm chú và thể hiện sự quan tâm, chăm sóc cách thành thật; thỉnh thoảng đề nghị được chia sẻ những cảm giác, những mối bận tâm, hoặc các vấn đề của họ.
2. Sự thăm dò. Những người được tư vấn cần “kể về những câu chuyện của họ” – tiết lộ nhiều chi tiết về các tình huống của vấn đề, những cơ hội bị bỏ nhỡ, và những kinh nghiệm buồn chán. 26 Đây là khoảng thời gian khi những người được tư vấn được khích lệ để chia sẻ những cảm giác, tâm sự về những suy nghĩ, và miêu tả lại những việc làm của họ. Người tư vấn lắng phải nghe một cách chăm chú, đặt các câu hỏi thăm dò định kỳ, và trả lời bằng thái độ tôn trọng, thông cảm, và nhạy bén. Việc thăm dò về các chủ đề như thế, giúp xây dựng được mối quan hệ khắng khít giữa người tư vấn và người được tư vấn và có một sự hiểu biết rõ hơn về tình huống của vấn đề.
3. Lập kế hoạch. Trong lúc người được tư vấn bắt đầu nhận thấy vấn đề qua một điểm gợi tỏ nào đó và sự thảo luận đang hướng đến các mục đích khác, có thể bỏ qua một số hành động để tìm ra các giải pháp. Người được tư vấn có thể thay đổi như thế nào? Phải chăng có thể hoàn tất một vài điều để các vấn đề khác được tốt hơn chăng? Có một vài điều cần phải được chấp nhận bởi vì chúng không thể thay đổi chăng? Có những tội lỗi nào cần được xưng ra, những hành động nào phải tránh, những thái độ nào cần thay đổi, những mục đích nào phải đạt được, những kỹ năng nào cần học hỏi? Người tư vấn và người được tư vấn phải cùng nhau phát họa một vài dự định trong việc thực thi hành động.
Một vài người tư vấn cố gắng bỏ qua điều này và hai giai đoạn trước, vì thế họ có thể trực tiếp đi thẳng vào quá trình đưa ra lời khuyên và thách thức người khác thực thi hành động. Thỉnh thoảng điều này là khả thi, nhưng thường thì không hiệu quả lắm, giống như một cuộc giải phẫu được hoàn tất bởi một nhà vật lý học bị-bịt-mắt, đã không để thời gian tiến hành chẩn đoán.
4. Tiến hành. Một dự định sẽ không thật sự hữu ích trừ khi nó được thực hiện bởi hành động cụ thể. Sau khi quyết định điều cần được hoàn tất, người ta phải được khuyến khích để bắt đầu hướng đến các mục đích của họ. Người tư vấn đưa ra sự ủng hộ, có lời chỉ dẫn, khuyến khích, và thỉnh thoảng nhẹ nhàng thúc đẩy. Đôi khi những người được tư vấn sẽ nhận lấy hành động và kinh nghiệm sự thất bại. Sau đó, người tư vấn sẽ giúp đỡ người được tư vấn đánh giá điều sai trật và cả hai cùng nhau lập kế hoạch để cố gắng hơn nữa.
5. Sự dừng lại. Sự tư vấn không thể kéo dài mãi. Trong lúc cả người tư vấn lẫn người được tư vấn bỏ qua mối quan hệ giải quyết-vấn đề cách dứt khoát và mạnh mẽ hơn. Thường thì có một sự tóm lược về điều đã được học hoặc dẫn đến thành công. Có thể có sự thảo luận về những cách thức mà người được tư vấn có thể đối diện một cách hiệu quả hơn trong tương lai. Và cánh cửa được mở ra ở bên trái đối với những sự liên lạc tư vấn trong tương lai nếu như chúng từng được cần đến. 27
Trên lý thuyết tất cả điều này có vẻ như cụ thể và đơn giản, thế nhưng quá trình tư vấn có thể rất phức tạp và đòi hỏi nhiều thời gian và sức lực. Những giai đoạn tư vấn hiếm khi được nhận dạng một cách cụ thể rõ ràng hoặc dễ dàng như các đoạn trước đó có thể đã ám chỉ đến. Chẳng hạn, bước đầu tiên liên lạc với những người được tư vấn và xây dựng một mối quan hệ quan trọng một cách đặc biệt lúc đầu khi người ta có thể lo lắng và bứt rứt. Tuy nhiên, một lần nữa khi một mối quan hệ bắt đầu được hình thành, nó phải được duy trì. Đối với nguyên nhân này, người tư vấn chẳng bao giờ mất đi tầm nhìn của bước một. Khi các quá trình tư vấn có sự giao động liên tục giữa những giai đoạn này, và khi các vấn đề trở nên rõ ràng hơn, thì sẽ tìm thấy được những giải pháp và được cố gắng, và sự tư vấn hướng đến sự kết thúc.
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ SỰ HUẤN THỊ
Hệ thống phân tâm học nổi tiếng của Sigmund Freud là lý thuyết của một người đàn ông về sự tư vấn. Nó tóm lược cái nhìn của Freud về bản tính con người, những nguyên nhân cho các vấn đề cá nhân, và những phương pháp tốt nhất đối với việc thay đổi sự giúp đỡ người khác. Cũng như các học giả khác, Freud đã tìm kiếm để xây dựng lý thuyết của mình trên nhiều sự kiện, bằng những thông tin khách quan, dựa vào ngành khoa học về lý luận (logic), và bằng kiến thức riêng của ông về con người. Tuy nhiên, không như những học giả khác, Freud dường như đã không hiểu được mỗi lý thuyết cũng là một sự phản ánh về cá tính, về những lợi ích, những sự thiên vị, về các giá trị, niềm tin, những mục đích, những kinh nghiệm trong quá khứ, văn hóa, sự huấn luyện của người sáng tạo nên nó, và có lẽ ngay cả đất nước mà người ta sống.
Không có khả năng để đem lại một sự đánh giá chính xác về số lượng những lý thuyết về sự tư vấn còn tồn tại hiện nay. Lý thuyết Adlerian, Jungian phân tích, liệu pháp chữa bệnh còn tồn tại, liệu pháp chữa bệnh con người-trung tâm của Rogers, liệu pháp chữa bệnh Gestalt, sự phân tích sự giao dịch (TA), liệu pháp chữa bệnh thực tiễn của Glasser, liệu pháp chữa bệnh mang động cơ-lý trí (RET) của Albert Ellis, những liệu pháp chữa bệnh về cách cư xử khác nhau, liệu pháp chữa bệnh học tập-xã hội, và liệu pháp chữa bệnh các hệ thống gia đình ở giữa nhiều liệu pháp chữa bệnh nổi tiếng. Mặc khác, một số các Cơ Đốc Nhân đã đề nghị phải đặt nền tảng tư vấn trên Kinh Thánh. Điều nầy bao gồm sự tư vấn nouthetic của Jay Adams, sự tư vấn về Thánh Kinh của Lawrence Crabb, spirituotherapy của Charles Solomon, và sự tư vấn trưởng thành của Howard Clinebell.
Một vài lý thuyết tư vấn được phát triển cao hơn và được giới thiệu trong ngôn ngữ trịnh trọng; những lý thuyết khác thì tư biện và ít trịnh trọng hơn. Một vài nhà lý thuyết học nhấn mạnh đến những cảm giác, trong khi những người khác thì dừng lại trong sự thay đổi cách cư xử căng thẳng hoặc sự suy nghĩ của người được tư vấn. Một vài người khẳng định rằng những người được tư vấn phải có trách nhiệm căn bản đối với sự giúp đỡ cho chính họ; những người khác thì nhấn mạnh hơn đến vai trò của người tư vấn. Nhiều sự đồng thuận của Cơ Đốc Nhân được xây dựng trên quan điểm của các nhà lý thuyết học về sự dạy dỗ của Thánh Kinh; những điểm nhấn mạnh của các lý thuyết khác được thay thế nhiều hơn dựa trên những sự tìm kiếm về quan điểm và lý thuyết học về tâm lý học. Một vài lý thuyết rất phức tạp và khó để tóm lược; những lý thuyết khác thì ngắn gọn và đơn giản hơn nhiều. Mặc dù một sự tóm lược về các vị trí khác nhau này còn xa với cơ hội để hoàn thành cuốn sách này, nhưng nó cung cấp một cái nhìn tổng quát tốt và sự phân tích có tính phê bình, sẵn sàng đối với những người muốn có được những thông tin khác. 28
Tại sao lại làm phiền Lý thuyết học? Một vài người đã thảo luận rằng những lý thuyết chỉ là một điểm quan trọng nhỏ mà thôi, chúng tồn tại chỉ để giúp đỡ hay khích lệ cái tôi của những người xây dựng các lý thuyết ấy, và chúng không có nhiều ảnh hưởng trên kinh nghiệm thực tế về việc tư vấn. Trong một vài ngữ cảnh, những thảo luận này là thật, thế nhưng các lý thuyết cũng có thể phục vụ cho một mục đích hữu ích nào đó.
Các lý thuyết giống như những hệ thống lý thuyết học. Chúng tóm lược điều mà chúng ta biết và tin, điều mà chúng ta đang tìm kiếm để hoàn tất, và làm thế nào để chúng ta đạt đến sự thành công cho các mục đích. Khi khuôn mẫu của cuốn sách này có thể được chỉ ra, có một số lớn thông tin về những sự phức tạp trong cách cư xử của con người, những nguyên nhân dẫn đến các vấn đề của con người, và những cách mà những người tư vấn có thể giúp đỡ. Những lý thuyết này giúp chúng ta hệ thống tất cả những sự kiện này với nhau thành một kiểu cấu trúc hợp nhất, để có thể hiểu và hữu ích. Những gì đạt được mang tính lý thuyết sẽ hướng dẫn chúng ta trong khi tìm cách để giúp đỡ người khác đối diện với các vấn đề của họ.
Lý thuyết nào là đúng? Câu trả lời là “không”, không có lý thuyết nào là đúng cả. Những lý thuyết là những phát hiện của con người, được sáng tạo bởi con người có thể phạm sai lầm, và dường như được chỉnh chữa lại khi kiến thức và sự hiểu biết của chúng ta phát triển hơn. Nhiều giáo sư có những lý thuyết yêu thích của họ (và những nhà lý thuyết học), nhưng hầu như một nửa trong số họ đều có chung cách trả lời như một sự tóm lược mới đây được chính họ xác nhận, là “người suy nghĩ hoặc làm việc theo cách chiết trung”. 29 Từ này miêu tả về những người thích hướng đến nhiều quan niệm và nhiều kỹ thuật, từ nhiều cách để đạt được mục đích thay vì bị giới hạn về một lý thuyết.
Chủ nghĩa chiết trung không phải là một sự thu thập không có chủ đích, lười biếng nhận biết về các ý tưởng. Thay vì thế, đây là một chủ ý hướng đến các nguồn khác nhau trong một tính cách sâu sắc và có thể giúp bạn - trong một dịp nào đó - bạn sẽ đạt đến mức kiểu mẫu trong việc tư vấn riêng của mình.
Không có một cách nào có thể làm điều này, trừ khi không có cách nào đúng để tư vấn. Chúa Jêsus đã từng dùng nhiều sự đạt đích khác nhau, tùy thuộc vào những nhu cầu của người được tư vấn. Những người tư vấn Cơ Đốc, ngay cả đối với những người siêng năng tìm hiểu Kinh Thánh nhất, sử dụng nhiều sự đạt đích khác nhau và thỉnh thoảng cũng không đồng ý với những quan điểm liên quan đến lý thuyết từ một môn học của những người bạn đồng nghiệp Cơ Đốc của họ. Thật có ích để hiểu về các lý thuyết khác nhau, nhưng cuối cùng mỗi người chúng ta phải nhờ cậy Đức Thánh Linh làm việc qua những cá tính và sự nhìn nhận vấn đề của cá nhân chúng ta để giúp chúng ta có thể giúp đỡ những người khác một cách có hiệu quả nhất.
LUẬT PHÁP VÀ SỰ HUẤN THỊ
Cách đây vài năm, một Mục sư của một Hội Thánh Tin Lành lớn ở California đã bị gia đình của một người đàn ông trẻ kiện vì những hoạt động bất chính, là người đã hứa sẽ tự sát khi anh làm theo sự tư vấn của Mục sư. Sự tố tụng được giải quyết với sự hài lòng của Mục sư, nhưng trường hợp này đã thu hút sự chú ý của người dân, qua đó đã chỉ ra tính chất thường xuyên của sự tư vấn và luật pháp tương tác với nhau.
Trong nhiều năm, các nhà tâm thần học và tâm lý học đã tham dự tiến trình hợp pháp hóa bằng cách đưa ra lời chứng cùng với sự giúp đỡ của các chuyên gia trong các phiên tòa pháp luật, các tòa án đã quyết định nếu một bị cáo thành thạo về tâm lý để chịu đựng được sự thử thách, với sự tham dự các cam kết để lắng nghe, với sự đưa ra những bài kiểm tra về tâm thần học và tâm lý học, và với sự tư vấn cho các tù nhân và gia đình của họ. Từ năm 1843, khi một người đàn ông Xcốt-len tên là Daniel M’Naghten bị tố cáo trong vụ giết người nhưng tìm không ra lỗi do bị mất trí, những giáo sư tư vấn được dùng để giúp đỡ các phiên tòa quyết định liệu các bị cáo có nhận thức được sự khác nhau giữa điều đúng và điều sai không, khi họ can dự đến những hành động phạm pháp. Gần đây hơn, sự tương tác giữa tâm thần học và luật pháp đã được gia tăng với lời nhận định có thể gây ra tranh luận sau “vì nguyên nhân bị mất trí,” John W. Hinckley, Jr. không có tội cố gắng để ám sát Tổng thống Reagan. 30
Hơn cả điều đó, một sự quan tâm tức thì đối với người tư vấn Cơ Đốc đã không dừng lại ở luật giới hạn về địa điểm và thời gian được bán đồ uống có cồn, và gia tăng tính thường xuyên của các vụ tố tụng về các hoạt động bất chính, như những người đã kiện ông Mục sư ở California. Luật pháp tại vùng bạn sống có thể quyết định ai là người thành thạo để tư vấn hợp pháp, những chủ đề mà người tư vấn có thể sử dụng, những người tư vấn nào được miễn tiết lộ các chi tiết về việc tư vấn trong phiên tòa pháp luật, các quyền tự do công dân của những người được tư vấn, những điều kiện đối với những cá nhân nào thì có thể được đưa vào bệnh viện để chữa trị các vấn đề về trí tuệ, những đòi hỏi giáo dục đối với những giáo sư tư vấn, là những người có thể nhận tiền thù lao một cách hợp pháp sau các dịch vụ tư vấn, điều được xác lập khi tư vấn đối với những hành động bất chính, và những điều kiện mà một người tư vấn có thể bị kiện về sự cẩu thả khi tư vấn.
Luật pháp bao gồm các điều này và những vấn đề tư vấn khác cũng thay đổi từ nơi này đến nơi khác, cũng như sự thường xuyên thay đổi các đạo luật. Nếu bạn tư vấn một cách không thường xuyên, thiếu cẩn trọng, hoặc giới hạn trong một nhà thờ hay trong một viện giáo dục nào đó, bạn có thể được miễn xét nhiều luật lệ mà những giáo sư tư vấn khác phải đối diện. Tuy nhiên, nếu bạn tư vấn một cách thường xuyên, sẽ là khôn ngoan nếu kiểm tra chúng với một luật sư hầu xác định các luật lệ địa phương có ảnh hưởng thế nào và cần giới hạn ra sao về sự tư vấn của bạn. 31
Sự thảo luận về các vấn đề hợp pháp này là một sự nhắc nhở qua đó cho thấy không có sự tư vấn nào được thực hiện xa rời mọi người. Những người tư vấn và những người được tư vấn sống như những thành viên của một xã hội và trong một cộng đồng. Thỉnh thoảng cộng đồng tạo ra các vấn đề và những giới hạn đối với hiệu quả tư vấn, nhưng các vấn đề phải đối diện cũng là một thực tế. Cộng đồng (bao gồm cả cộng đồng Cơ Đốc) có thể làm cho công việc của bạn dễ dàng như là một người tư vấn hữu hiệu. Vai trò của những ảnh hưởng cộng đồng sẽ đáp ứng sự chú ý của chúng ta trong chương kế tiếp.
Christian Couseling – Gary R]. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Benjamin, Alfred D. The Helping Interview with Case Illustrations. Boston: Houghton-Mifflin,1987.
Brammer, L. M. The Helping Relationship. 2d ed. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Crabb, Lawrence J., Jr. Understanding People: Deep Longings for Relationship. Grand Rapids, Mich.: Zondervan,1987.
Collins, Gary R. How to Be a People-Helper. Ventura, Calif.: Regal,1976.
Egan, Gerard. The Skilled Helper. 3d ed. Monterey, Calif.: Brooks/Cole,1986.
Welter, Paul. Connecting with a Friend: Eighteen Proven Counseling Skills to Help You Help Others. Wheaton, Ill.: Tyndale,1985.
-------. How to Help a Friend. Wheaton, Ill.: Tyndale,1978.
Worthington, Everett L., Jr. When Someone Asks for Help: A Practical Guide for Counseling. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1982.
(The Core of Counseling)
KINH THÁNH chứa đựng nhiều ví dụ về nhu cầu của con người. Kinh Thánh cho chúng ta biết về sự lo lắng, nỗi cô đơn, sự thất vọng, nghi ngờ, khổ đau, buồn chán, tình trạng bạo hành, quan hệ tình dục bất chính, sự đắng cay, nghèo thiếu, sự tham lam, bệnh tật, tình trạng căng thẳng bên trong mỗi cá nhân, và nhiều vấn đề cá nhân khác – thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy những nan đề ấy xuất hiện ngay cả trong cuộc sống của các thánh, là những nhân vật vĩ đại mà Kinh Thánh đề cập đến.
Chẳng hạn như Gióp, một người đàn ông thánh thiện, nổi tiếng, giàu có, và được trước những người đương thời với ông rất tôn trọng. Nhưng sau đó, nhiều tai họa thình lình xảy đến với ông. Ông mất đi sự giàu có và sức khỏe của mình. Tất cả con cái của ông đều chết trong một cơn bão, đẩy ông rơi tụt xuống sự đau khổ và thất vọng tột cùng. Thay vì nâng đỡ ông, vợ của ông lại chỉ trích và phàn nàn. Ba người bạn của ông lúc đầu như có ý an ủi giúp đỡ ông phần nào, nhưng sau đó thì lên án ông…, và Đức Chúa Trời dường như đã bỏ rơi ông.
Kế đó Ê-li-pha đến. Đây là một người đàn ông trẻ đã biết lắng nghe Gióp và hiểu được những tranh chiến trong lòng ông. Ê-li-pha bị Gióp chỉ trích trước những ý tốt của ông, còn bạn của Gióp - những người tư vấn không nhạy cảm đã giảng và đưa ra lời khuyên để giúp đỡ Gióp bằng những nổ lực riêng của họ. Ngược lại, Ê-li-pha thể hiện sự đồng cảm và quan tâm, một sự chấp nhận khiêm nhường để cùng hòa với hoàn cảnh của Gióp lúc đó (mà không có bất kỳ thái độ nào tỏ ra thánh thiện-hơn-người khác), một sự khích lệ để đối diện, và một sự khao khát kiên định để chỉ cho người được tư vấn – Đức Chúa Trời là Đấng cai trị duy nhất và chỉ một mình Ngài có thể giúp đỡ trong những lúc có cần. Ê-li-pha là một người tư vấn thành công ở chỗ mà những người khác đã thất bại. 1
Cách đây vài năm, cựu Chủ tịch Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ đã đánh giá rằng ngay cả ngày hôm nay, trong bốn người tư vấn thì đã có hết ba người không có hiệu quả (nghĩa là chỉ có một trong bốn người tư vấn là có hiệu quả mà thôi). Một nghiên cứu mới đây cho biết rằng hầu hết các Mục sư cảm thấy mình ở trong tình trạng thiếu sự chuẩn bị cho những trách nhiệm tư vấn của họ và hầu hết trong số họ đều không thực sự thành thạo như là những người tư vấn. 2 Một vài nghiên cứu chứng tỏ rằng đa số những người tư vấn không có hiệu quả, và có lẽ ngay cả họ cũng bị tổn hại. 3
Tuy nhiên, nhiều người khác lại rất thành công, và họ thực hiện việc tư vấn một cách rất hiệu quả. Những người này mang một cá tính đặc biệt làm nổi bật tính chân thật, sự hiểu biết, lòng yêu thương, và khả năng để đối thoại trong một tinh thần chân thành và xây dựng. Họ là những người tư vấn có kỹ năng trong việc sử dụng những kỹ thuật để giúp đỡ những người được tư vấn hướng đến những mục tiêu rõ ràng. 4
Trong chương này, chúng ta sẽ bắt đầu với việc xem xét về những mục tiêu tư vấn, thảo luận về mối quan hệ tư vấn, tóm lược một vài kỹ thuật tư vấn căn bản, để đưa ra một cái nhìn tổng quát về tiến trình tư vấn, và có một kết luận về những mục đích lý thuyết cho việc tư vấn.
NHỮNG MỤC TIÊU CỦA VIỆC HUẤN THỊ
Tại sao người ta đến để được tư vấn? Họ muốn điều gì để thành công? Nguyên nhân của bạn là gì để cố gắng giúp đỡ các vấn đề tư vấn của họ? Những câu hỏi này thật là khó. Bởi vì mỗi câu hỏi đều có thể có những câu trả lời khác nhau, tùy thuộc vào cả người được tư vấn và người tư vấn.
Những người tư vấn Cơ Đốc có thể trông đợi những khách hàng của họ đến với những vấn đề liên quan đến lời cầu nguyện, sự nghi ngờ, giáo lý, sự trưởng thành thuộc linh, hoặc là cách vi phạm tội lỗi. Tuy nhiên, một cách tổng quát, chỉ có 10% mục vụ tư vấn giải quyết được các vấn đề về tôn giáo, như những điều vừa kể. 5 Thông thường thì người ta đến khi gặp tình trạng căng thẳng trong hôn nhân, có những sự khủng hoảng, thất vọng, những mâu thuẫn bên trong cá nhân mỗi người, sự bối rối, hoặc các vấn đề khác trong cuộc sống.
Chúa Jêsus đã quan tâm đến tất cả những vấn đề như thế. Ngài tuyên bố rằng Ngài đã đến để ban cho con người cuộc sống sung mãn và hết thảy đều sẽ được hoàn tất. 6 Chắc chắn rằng trong câu Kinh Thánh nổi bật nhất của Thánh Kinh, Chúa Jêsus đã nói về mục đích của Đức Chúa Trời trong việc sai Con Ngài xuống thế gian – “hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư-mất mà được sự sống đời đời.” 7 Vì thế, Chúa Jêsus đã có hai mục đích riêng biệt: sự sống sung mãn trên đất và sự sống đời đời trên thiên đàng.
Người tư vấn theo chân Đức Chúa Jêsus-Christ có cùng những mục tiêu tốt nhất để thực hiện cho người khác – làm thế nào để có cuộc sống sung mãn và nhiều điều mà Chúa đã hứa về cuộc sống đời đời cho những người tin nhận Ngài. Nếu như chúng ta thực thi Nhiệm Vụ Lớn Lao này một cách nghiêm túc, thì chúng ta sẽ có một sự khát khao mạnh mẽ để thấy được những người được tư vấn của chúng ta trở nên những môn đồ của Đức Chúa Jêsus-Christ. Và nếu như chúng ta thực thi Lời của Chúa Jêsus một cách triệt để thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được kết quả – một cuộc sống sung mãn trọn vẹn, chỉ đến với những ai hết lòng tìm kiếm một cuộc sống nương cậy vào những sự dạy dỗ của Ngài.
Tuy nhiên, dù biết rất rõ rằng có nhiều Cơ Đốc Nhân trung tín sẽ có được cuộc sống đời đời trong thiên đàng, nhưng vẫn có những người không kinh nghiệm được một cuộc sống sung mãn ngay cả trên đất. Những người này cần sự tư vấn liên quan đến những điều gì đó khác hơn là sự rao giảng hoặc sự dạy dỗ Cơ Đốc truyền thống. Chẳng hạn như, sự tư vấn như thế có lẽ sẽ giúp người được tư vấn nhận ra những thái độ nguy hại kín giấu, hướng dẫn các cá tính tiềm ẩn cùng những cách cư xử mới, giúp họ có được những quyết định hoặc làm thay đổi cách sống của họ, hoặc chỉ cho họ biết làm thế nào để vận động sức mạnh nội lực của ai đó nhằm đối diện với sự khủng hoảng. Thỉnh thoảng sự tư vấn như thế được hướng dẫn bởi Đức Thánh Linh, có thể sự tự do của người được tư vấn làm kéo dài những sự khó chịu, những ký ức trong quá khứ, hoặc những thái độ hiện tại; và chúng làm ngăn trở người được tư vấn từng bước trưởng thành. Đối với người chưa tin Chúa, việc tư vấn như thế có thể được thực hiện như là một hình thức “rao giảng-trước” 8 giúp làm sạch một vài trở ngại cho tiến trình chuyển đổi. Vì thế, việc rao giảng và môn đồ hóa là những mục đích cuối cùng của người tư vấn Cơ Đốc, ngay cả trong trường hợp điều đó không phải là mục đích duy nhất. 9
Còn những mục đích khác là gì? Nhiều người được tư vấn chỉ có những ý niệm mơ hồ về điều mà họ muốn nhận được từ sự tư vấn – ngoại trừ việc chỉ để hiểu chính mình hoặc cảm thấy tốt hơn. Nếu như những người tư vấn của họ đều không rõ ràng, liệu pháp chữa bệnh dường như không có mục đích và không hiệu quả. Những mục đích tư vấn sẽ đặc biệt phụ thuộc vào những vấn đề của người được tư vấn một cách toàn diện, thế nhưng bất kỳ một danh sách nào dường như cũng đều bao gồm ít nhất những điều sau:
1. Nhận thức cá nhân. Để hiểu một ai đó thường là bước đầu tiên trong quá trình chữa lành. Nhiều vấn đề do chính chúng ta đặt ra giới hạn, nhưng một người đang được giúp đỡ có thể thất bại trong việc nhận ra mình đã thiên vị hoặc với những thuận cảnh, hoặc với thái độ tiêu cực, hay với cách cư xử đầy tự ti. Ví dụ, hãy xem xét một người hay phàn nàn: “chẳng có ai thích tôi cả,” nhưng nhưng họ lại thất bại để nhận thấy rằng sự phàn nàn của họ gây khó chịu cho nhiều người khác, và đó là nguyên nhân chính dẫn đến bị từ chối. Mục đích tư vấn là vì một mục tiêu cụ thể nào đó, là người giúp đỡ nhận thức một cách tỉnh táo để trợ giúp những người đang được giúp đỡ nhận được một hình ảnh thật về điều đang diễn ra bên trong họ và trong thế giới xung quanh họ.
2. Sự giao tiếp. Chúng ta đều biết rất rõ rằng có nhiều vấn đề hôn nhân liên quan đến sự gãy đỗ trong sự giao tiếp giữa vợ-chồng với nhau. Điều đó như là một phần không thể thiếu trong hôn nhân. Nhiều người không thể hoặc không vui lòng để giao tiếp. Người được tư vấn cần được khích lệ để nói về những cảm giác, suy nghĩ, và thái độ của mình một cách rõ ràng và chính xác. Sự giao tiếp như thế liên quan một cách rõ ràng đến việc thể hiện chính mình và nhận được những bài học từ người khác một cách hiệu quả.
3. Việc học và thay đổi cách cư xử. Không phải là tất cả, nhưng hầu như cách cư xử của chúng ta có thể thay đổi nhờ học hỏi. Vì thế việc tư vấn nhằm mang đến sự giúp đỡ cho những người được tư vấn thiếu khả năng học biết, có thể học hỏi nhiều cách áp dụng hiệu quả hơn. Việc học như thế có được là nhờ sự dạy dỗ, suy gẫm của người tư vấn, hoặc qua đời sống hay sự từng trải về những thử thách và lầm lỗi của của một người nào đó. Thỉnh thoảng việc phân tích những sai trật của bản thân khi gặp phải sự thất bại cũng là điều cần thiết. Kế đến, người được tư vấn phải được khích lệ để cố gắng nhiều hơn nữa.
Giả sử như, bạn đang tư vấn cho một người đàn ông trẻ tuổi cảm thấy thiếu tự tin trong việc hẹn hò. Cần phải học hỏi cách cư xử cho một cuộc hẹn hò. Nếu như bạn đọc lại đoạn trước, bạn sẽ có thể nghĩ ra những cách để giúp đỡ người được tư vấn đang có vấn đề - sợ hãi việc hẹn hò.
4. Tính thực tế. Một vài tác giả bị căng thẳng về tầm quan trọng của việc giúp đỡ những cá nhân học cách để đạt được và duy trì tiềm năng tối ưu của ai đó. Điều này được gọi là “khả năng thực tế” và được một vài người tư vấn đề suất như là một mục đích dành cho mọi người – bất kể họ có đang ở trong sự tư vấn hay không. Đối với Cơ Đốc Nhân, có thể thay thế một thuật ngữ thích hợp là “Đấng Christ thực hữu” điều đó cho thấy mục đích trong cuộc sống được hoàn tất trong Đấng Christ, việc phát triển tiềm năng lớn lao nhất của một người được thông qua năng quyền của Đức Thánh Linh là Đấng mang lại cho chúng ta sự trưởng thành thuộc linh. 10
5. Sự ủng hộ. Thường thì người ta có thể gặp những mục đích kể trên và thực hiện chức năng một cách hiệu quả, ngoại trừ đối với những giai đoạn nhất thời của sự căng thẳng bất thường hoặc khủng hoảng. Những yếu tố này có thể trở nên hữu ích trong một giai đoạn nhất định tạo sự ủng hộ, khuyến khích, và “chịu đựng gánh nặng” cho đến khi họ có thể tái vận động những nguồn lực về thể chất và thuộc linh của họ để đối phó với các vấn đề trong cuộc sống một cách hiệu quả.
6. Sự trọn vẹn thuộc linh. Trong cuốn sách giáo khoa bàn về sự tư vấn, Howard Clinebell đã viết, trọng tâm của mục vụ chăm sóc và tư vấn là giúp đỡ người khác giải quyết những nhu cầu thuộc linh của họ và tìm ra sự trọn vẹn thuộc linh. 11 Mặc dù việc đề cập đến vấn đề tôn giáo thỉnh thoảng có thể là một cách mà người được tư vấn dùng để che giấu những vấn đề về tâm lý-cá nhân, và ngược lại. Những người được tư vấn thường thất bại để thấy ra hoặc chấp nhận có một tiêu chuẩn thuộc linh đối với tất cả các nan đề liên hệ đến con người. 12 Nhiều người có thể đồng ý với kết luận được Carl Jung trích dẫn nhiều lần – những người trên ba mươi lăm tuổi trong số những bệnh nhân của ông, thì “không có vấn đề của một người mà sau rất nhiều phương cách cuối cùng vẫn không tìm ra cho mình một cái nhìn mang tính tôn giáo về cuộc sống.” 13 Vì thế, người tư vấn Cơ Đốc trở nên một người lãnh đạo thuộc linh để hướng dẫn sự tăng trưởng thuộc linh, giúp đỡ những người được tư vấn giải quyết những xung đột thuộc linh, và làm cho họ có thể tìm thấy niềm tin và nhận chân những giá trị đích thực. Thay vì tạo sự đối thoại giữa người tư vấn và người được tư vấn, Cơ Đốc Nhân hết lòng tìm kiếm vì một “trialogue” (sự hiện hữu của Chúa), bởi họ nhận thức được rằng sự thực hữu của Đức Chúa Trời là trung tâm để việc giúp đỡ người khác được hiệu quả. 14
Sự tư vấn rất hiếm khi hiệu quả nếu như những người tư vấn áp đặt các mục đích riêng của họ lên những khách hàng. Sẽ tốt hơn nếu như người tư vấn và người được tư vấn cùng nhau sắp đặt những mục đích. 15 Những mục đích như thế nên đặc biệt rõ ràng (hơn là mơ hồ), thực tế, và (nếu có một vài điều) đã được thiết lập trong một vài chuỗi liên kết hợp lý đến nỗi giúp ta nhận biết những mục đích đã được thực hiện trước hết và, có lẽ, bất kể trong bao lâu.
MỐI QUAN HỆ TRONG SỰ HUẤN THỊ
Nhiều người miễn cưỡng đi đến để được tư vấn. Thật không dễ dàng cho bất kỳ ai trong chúng ta chấp nhận rằng mình cần được giúp đỡ. Một vài cá nhân khiếp sợ những người tư vấn, hoặc sợ hãi về điều mà những người tư vấn có thể hỏi. Những người khác có thể có những vấn đề như quá lúng túng hoặc quá riêng tư để thảo luận mà không hề có cảm giác không thoải mái. Thỉnh thoảng các Cơ Đốc Nhân cảm thấy rằng họ không nên có quá nhiều các vấn đề, vì thế nhu cầu đối với sự tư vấn được nhìn nhận như là một dấu hiệu cho thấy sự thất bại cá nhân và thuộc linh.
Một người tư vấn giỏi nhận thức được những điều không chắc chắn và cố gắng để giúp đỡ những người được tư vấn thư giãn. Điều này có thể hoàn tất bởi sự tư vấn trong một “xu hướng chữa lành” 16 nơi mà người được tư vấn cảm thấy thoải mái và là nơi có một vài sự chểnh mảng và gián đoạn. Điều này có thể là trong một văn phòng hoặc một trung tâm tư vấn, nhưng sự giúp đỡ hiệu quả có thể đạt được hầu như ở bất kỳ nơi đâu. Đối với một vài người, một góc im lặng của một nhà hàng nào đó đôi khi có thể ít đe dọa hơn cách thức gặp gỡ trịnh trọng tại một văn phòng tư vấn.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là xác định vị trí về mối quan hệ giữa người giúp đỡ và người được tư vấn. Nhiều người tư vấn có thể đồng ý với tác giả, người đã gọi mối quan hệ này là “trung tâm của việc giúp đỡ người khác.” 17
Làm thế nào để liệu pháp chữa lành mối quan hệ này được xây dựng? Cách đây nhiều năm, trong một cuộc nghiên cứu kéo dài bốn năm với những bệnh nhân tại bệnh viện và do những người tư vấn khác nhau, đã phát hiện ra rằng các mối quan hệ phát triển và những bệnh nhân được cải thiện khi những liệu pháp chữa lành cho thấy những mức độ cao về sự thân ái, tính chân thật, và hiểu biết sự đồng cảm chính xác. 18 Khi người tư vấn thiếu đi những phẩm chất tư vấn này, những bệnh nhân trở nên trầm trọng hơn. Tất nhiên điều quan trọng là sự nhạy cảm và việc sử dụng bất kỳ những kỹ thuật nào mà bạn có thể sắp đặt những lời tư vấn cách dễ chịu, thế nhưng trọng tâm của việc giúp đỡ cho mối quan hệ có vẻ như tập trung vào những đặc điểm của người tư vấn.
1. Sự thân ái. Từ ngữ này mang nhiều hàm ý liên quan đến sự chăm sóc, hoặc có được một sự quan tâm thành thật, bất chấp những hành động hoặc quan điểm của ai đó vẫn không làm ngột ngạt sự quan tâm từ những lời tư vấn. Chúa Jêsus đã thể hiện điều này khi Ngài gặp người đàn bà bên giếng nước. Những phẩm hạnh của người đàn bà này có thể là thấp hèn, và Ngài chắc chắn chẳng bao giờ tha thứ cho lối sống tội lỗi ấy. Thế nhưng Chúa Jêsus vẫn tôn trọng người đàn bà này và Ngài đối xử tử tế cũng như xem trọng giá trị bản thân nàng. Sự trìu mến, thái độ chăm sóc của Ngài đều biểu lộ rõ ra ở bất kỳ nơi nào Ngài đi đến.
2. Tính chân thật. Người tư vấn chân thật là “vì thật sự” – là một người cởi mở và thành thật, tránh đi sự giả tạo, gượng ép hay như đang trong một vai diễn cao siêu nào. Tính chân thật ám chỉ đến sự bộc phát tự nhiên chứ không phải là sự bốc đồng bất chợt nào, và sự chân thật cũng không có cảm giác đối đầu mạnh mẽ nào. Điều này có nghĩa là người giúp đỡ tự mình phải sâu sắc – không nghĩ hoặc cảm xúc một điều và lại nói một điều khác.
3. Sự thông cảm. Điều mà người được tư vấn nghĩ là gì? Làm thế nào để người được tư vấn thật sự cảm thấy mình như đang trải qua? Những giá trị, niềm tin, những mâu thuẫn nội tâm, và những nỗi đau của người được tư vấn là gì? Một người tư vấn giỏi thì rất nhạy cảm đối với những vấn đề này, có thể hiểu được chúng, và với sự hiểu biết này việc sử dụng ngôn từ và những cử chỉ để giao tiếp đối với người được tư vấn rất có hiệu quả. Khả năng để “cảm nhận được” người được tư vấn là điều mà chúng ta nhắm đến bằng cách hiểu và cảm thông một cách chính xác. Điều đó có thể giúp người khác, ngay cả khi chúng ta không hiểu hoàn toàn, thế nhưng người tư vấn có thể thông cảm (đặc biệt gần với bước khởi đầu việc tư vấn) thì hầu như có thể mang lại hiệu quả như là một người giúp đỡ-người khác.
Mặc dù sự thân ái, tính chân thật, và sự thông cảm nằm trong số những thuộc tính được đề cập một cách thường xuyên nhất về một người tư vấn giỏi, còn có những đặc điểm quan trọng khác. Chẳng hạn như những người giúp đỡ hiệu quả có xu hướng tự giải quyết được các vấn đề riêng của họ. Chúng tự do liên hệ với nhau trong những mâu thuẫn không đổi, sự bấp bênh, hoặc những kiềm hãm mang tính cá nhân. Người tư vấn hiệu quả cũng phải có lòng thương xót, quan tâm đến người khác, tỉnh táo đối với những cảm xúc và động cơ riêng của mình, tự-tiết lộ hơn là tìm cách che đậy, đáng tin cậy, được yêu thích, và hiểu biết về lãnh vực tư vấn. Cơ Đốc Nhân có thể tóm lược tất cả những điều này bằng cách tuyên bố rằng cuộc sống của người tư vấn phải thể hiện cách hiển nhiên những bông trái Thánh Linh 19: sự vui-mừng, bình-an, nhịn-nhục, nhơn-từ, hiền-lành, trung-tín, mềm-mại, tiết-độ, và điều chắc hẳn là quan trọng nhất – lòng yêu-thương. 20
Điều này đã được một cựu chủ tịch Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ nhấn mạnh, ông gọi lòng yêu thương là “không thể so sánh được – là liệu pháp tâm lý vĩ đại ... là một thứ gì đó mà tâm thần học chuyên ngành không thể tạo ra, không thể điều chỉnh được, mà cũng không giải phóng được.” 21 Một tác giả cho rằng – Cơ Đốc Giáo dường như đặt ra một tiêu chí để dẫn một đời sống đi đến chỗ hoàn toàn đặt nền tảng trên tình yêu, và nhờ đó có thể giúp ích trong những lúc mà sự tư vấn thế tục thất bại? Điều này gây nên một sự suy nghĩ – khiêu khích sự thách thức cho người tư vấn Cơ Đốc: nền tảng để giúp đỡ đó là lòng yêu thương – qua chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Trời thương xót những người thiếu thốn và cầu nguyện để Ngài giúp chúng ta có lòng yêu thương hơn nữa.
Đối với một vài người thì sự kinh nghiệm về lòng yêu thương là tất cả những gì mà họ cần để đem lại sự thay đổi, nhưng đối với nhiều người khác thì đó là điều cần nhiều hơn nữa. Cách đây nhiều năm một nhà tâm thần học nổi tiếng về trẻ em đã viết một cuốn sách có đề tựa: Tình Yêu-thương Không Đủ. Thường thì có một yêu cầu về kỷ luật, cấu trúc, và những ảnh hưởng về liệu pháp chữa bệnh khác. 22 Người giúp đỡ Cơ Đốc hữu hiệu tìm kiếm việc phát triển các mối quan hệ tư vấn đặt nền tảng trên tình yêu, đồng thời cũng phải phấn đấu để trở nên thành thạo về kiến thức và biết sử dụng những kỹ thuật tư vấn cơ bản.
NHỮNG KỸ THUẬT HUẤN THỊ
Trong nhiều lãnh vực, người tư vấn và người được tư vấn trở nên bạn bè thân thiết và cùng nhau làm việc để giải quyết vấn đề. 23 Tuy nhiên, không giống như các cuộc thảo luận bình thường giữa những người bạn, mối quan hệ giúp đỡ này là một sự mô tả đặc biệt bởi một chủ đích rõ ràng – đó là việc giúp đỡ người được tư vấn. Những nhu cầu của người giúp đỡ phần nhiều còn được thấy ở những nơi khác nữa, và người giúp đỡ không phụ thuộc vào người được tư vấn về tình yêu thương, sự khẳng định, hoặc sự giúp đỡ. Những người tư vấn đặt những mâu thuẫn riêng của họ bên cạnh hầu nhờ đó nhận thức được những nhu cầu người được tư vấn, và giao tiếp với sự hiểu biết cùng sự vui lòng để giúp đỡ.
Không có công thức giản đơn nào để có thể tóm lược thể nào sự giúp đỡ này được trao ban. Quá trình ban tặng-sự giúp đỡ có thể rất phức tạp và không dễ để tóm lược trong một vài đoạn. Vì thế, có một vài kỹ thuật căn bản đã được sử dụng trong hầu hết những tình huống tư vấn.
1. Chăm chú. Người tư vấn cần phải cố gắng đem lại sự chú tâm hoàn toàn cho người được tư vấn. Điều này được thực thi qua (a) sự giao tiếp bằng mắt, nhưng không nhìn chằm chằm như là một cách để tóm lấy sự quan tâm và sự hiểu biết; (b) dáng điệu thì nên được thư giãn hơn là căng thẳng, và sự học hỏi thường liên quan đến người được tư vấn; và (c) những cử chỉ thì phải tự nhiên nhưng không kiểu cách hoặc sao lãng. Người tư vấn nên lịch sự, nhã nhặn, tử tế, và tích cực tận tuỵ vì có động cơ hiểu biết rõ rệt.
Trong quá trình tư vấn, bạn cần nhận ra sự mệt mõi, thiếu kiên nhẫn, sự sao lãng của mình vì các vấn đề khác, sự mơ màng, hoặc vì thiếu nghỉ ngơi có thể ngăn trở bạn chú tâm cẩn thận đối với người được tư vấn. Người giúp đỡ đòi hỏi công việc mà bao hàm cả tính nhạy cảm, thể hiện tính chân thật của việc chăm sóc, và sự tỉnh táo đối với điều mà người được tư vấn có thể đang cố gắng để giao tiếp.
2. Lắng nghe. Điều này liên quan nhiều hơn đến sự bị động hoặc thiếu tập trung chú ý đối với những điều người khác nói. Hiệu quả của việc lắng nghe là một quá trình tích cực, liên quan đến:
• Năng lực để gạt sang một bên những mâu thuẫn, thành kiến, và những mối bận tâm riêng của bạn, vì thế bạn có thể tập trung vào điều mà người được tư vấn đang đối thoại.
• Tránh đi những sự thể hiện bằng lời nói hoặc bằng lời nói thiếu tế nhị bày tỏ sự không tán thành hoặc phê phán về điều đang nói, ngay cả khi nội dung là sự chỉ trích.
• Sử dụng bằng cả mắt lẫn tai của bạn để khám phá các thông điệp đến từ giọng nói, ngữ điệu, những cử chỉ, những thể hiện trên khuôn mặt, và những dấu hiệu khác không bằng lời nói.
• Không chỉ lắng nghe điều mà người được tư vấn nói, mà còn phải chú ý đến ý mà họ muốn nói.
• Kiên nhẫn đợi chờ trong những thời khắc im lặng hoặc rơi lệ khi người được tư vấn tập trung mọi cảm xúc, nhằm chia sẻ một điều đau đớn hoặc bình tâm để thu thập những sự suy nghĩ của người được tư vấn, và lấy lại sự bình tĩnh.
• Khi người được tư vấn nói, hãy nhìn thẳng vào họ nhưng không nên nhìn chằm chằm vào họ hoặc đảo mắt nhìn quanh quẩn đâu đó khắp phòng.
• Nhận thức rằng bạn có thể chấp nhận người được tư vấn cho dù bạn có thể không tán thành những hành động, phẩm giá, hoặc niềm tin của họ. Chúa Jêsus đã dung nhận người đàn bà phạm tội ngoại tình mặc dù Ngài không chấp nhận cách cư xử của nàng. 24 Điều này có thể có ích nếu như bạn cố gắng tưởng tượng chính mình đang ở trong vị trí của người được tư vấn, và nổ lực để thấy được nhiều điều từ cách nhìn của người được tư vấn.
Thật là dễ để lờ đi tất cả điều này, hãy để tâm trí của bạn lang thang đâu đó (đặc biệt là nếu như câu chuyện của người được tư vấn nhàm chán hoặc được nhắc đi nhắc lại), hoặc trượt sâu vào cuộc nói chuyện và đưa ra lời khuyên. Khi điều này xảy ra, người được tư vấn không cảm thấy mình hiểu được điều gì, và họ thường miễn cưỡng để bày tỏ những nỗi đau một cách thành thật hoặc bộc bạch một cách chi tiết. Những người tư vấn nói nhiều có thể đưa ra lời khuyên tốt nhưng hiếm khi họ biết lắng nghe và ngay cả dường như ít bắt kịp. Trong những tình huống như thế, những người được tư vấn thường cảm thấy mình không được hiểu. Ngược lại, sự lắng nghe tích cực là một cách để nói với những người được tư vấn “Tôi thật sự thú vị và quan tâm một cách thành thật.” Khi chúng ta không lắng nghe nhưng lại cố gắng thay vì tư vấn bằng cách nói, điều này thường bộc lộ sự không an toàn hoặc thiếu khả năng của người tư vấn để có thể giải quyết sự sợ hãi, sự mơ hồ, hoặc những chủ đề mang tính xúc động.
3. Đáp ứng. Không nên khẳng định rằng người tư vấn chỉ cần lắng nghe và không làm điều gì khác. Chúa Jêsus là Người biết lắng nghe tốt (xem xét thời gian của Ngài trước sự bối rối của hai môn đồ trên đường về làng Em-ma-út), nhưng sự giúp đỡ của Ngài cũng được bày tỏ bởi hành động và những sự đáp ứng cụ thể bằng lời nói.
Hướng dẫn là một kỹ năng mà người tư vấn trực tiếp hướng đến một cách tế nhị trong cuộc đàm thoại. “Điều gì đã xảy ra tiếp theo?” “Hãy nói với tôi điều mà bạn muốn nói . . . ?” – là những câu hỏi ngắn gọn nhằm có thể dẫn cuộc thảo luận đi trong sự hướng dẫn mà sẽ đem lại thông tin hữu ích.
Sự phản chiếu là một cách để cho những người được tư vấn biết rằng chúng ta “với họ” có đủ khả năng để làm cho họ có thể cảm nhận hoặc suy nghĩ được. “Bạn phải cảm thấy . . . ,” “Tôi chắc rằng nó rất nhàm chán,” “Nó phải vui cơ” nhằm phản ánh được điều đang diễn ra trong việc tư vấn. Hãy cẩn thận không phản ánh điều gì sau mỗi lời nhận định; hãy thực hiện điều đó theo một chu kỳ. Cố gắng không lặp lại lời nói nhiều lần hoặc nhắc lại điều mà người được tư vấn nói. Điều đó có thể làm người được tư vấn khó chịu. Hãy kiềm chế bớt sự nhiệt tình để bắt đầu hầu như ở mỗi câu bằng một cụm từ rập khuôn như là “Bạn phải nghĩ . . . ” hoặc “Tôi nghe bạn nói . . . ” Một sự tóm lược về điều đang diễn ra theo từng chu kỳ ngắn gọn có thể là một cách để phản chiếu và kích thích người được tư vấn phấn đấu hơn. Người tư vấn có thể tóm lược những cảm giác (“những cảm giác đau đớn”) và/hoặc những chủ đề chung về điều được nói đến (“từ tất cả những điều có vẻ như bạn đã có được một chuỗi đầy đủ về các sự thất bại”). Bất kỳ khi nào bạn nhận xét điều gì, hãy để cho người được tư vấn có thời gian và cơ hội trả lời về điều mà bạn đã nói.
Tra hỏi, nếu hoàn tất một cách bài bản, thì có thể giải quyết được nhiều thông tin hữu ích. Những câu hỏi tốt nhất là những câu hỏi yêu cầu phải có ít nhất một hoặc hai câu trả lời (ví dụ, “Hãy nói cho tôi nghe về cuộc hôn nhân của bạn.” “Những điều gì làm cho bạn không hạnh phúc?”) tốt hơn là những câu hỏi có thể được trả lời trong một từ (“Bạn đã lập gia đình chưa?” “Bạn không hạnh phúc à?” “Bạn bao nhiêu tuổi rồi?”). Bắt đầu từ những người tư vấn có hướng hỏi nhiều câu hỏi hơn là những người tư vấn có kinh nghiệm, và khi hỏi quá nhiều có thể gây trở ngại cho cuộc đàm thoại, thông thường các sinh viên được hướng dẫn để hỏi một vài câu hỏi. Cũng vậy, những câu hỏi bắt đầu với chữ Tại sao thường nên tránh đi. Những loại câu hỏi này như có hàm ý phán xét hoặc chúng kích thích các cuộc thảo luận mang tính tri thức, dong dài, làm cho người được tư vấn có hướng giữ chặt những cảm giác thật và những nỗi đau của mình.
Đối đầu không giống như một sự công kích hay phán xét người khác trong vòng lẩn quẩn. Khi chúng ta đối đầu, chúng ta nói trình bày với người được tư vấn một vài ý tưởng mà rất có thể họ không thấy được. Những người được tư vấn có thể đối diện với nhiều tội lỗi trong cuộc sống, những thất bại, hành động thiếu nhất quán, những hối tiếc, những quan điểm nguy hại, hoặc tự đánh mất chính mình. Sự đối đầu được hoàn tất cách tốt nhất bằng tấm lòng biết yêu thương, tế nhị, và không phán xét.
Thỉnh thoảng trước sự đối đầu, những người được tư vấn đáp ứng bằng thái độ ăn năn và kinh nghiệm được ý nghĩa của sự tha thứ. Tuy nhiên, thường thì sự đối đầu mang lại sự phản đối, lỗi lầm, gây đau đớn, hoặc giận dữ. Thật là quan trọng để những người được tư vấn dùng lời nói để đáp ứng với sự đối đầu của bạn. Hãy cho họ có thời gian để thảo luận nhiều hơn nữa về những cách ứng xử.
Một số Cơ Đốc Nhân cho rằng sự tư vấn và sự đối đầu là những thuật ngữ đồng nghĩa. Điều này không được sự ủng hộ cả trong Kinh Thánh cũng như về tâm lý học. Sự đối đầu là rất quan trọng và thỉnh thoảng gây khó khăn cho việc tư vấn, thế nhưng nó không chỉ là kỹ năng có thể đã được sử dụng trong việc giúp đỡ người khác.
Sự thông báo liên quan đến việc nói cho người cần thông tin biết về các sự kiện. Cần cố gắng tránh đi việc nói quá nhiều thông tin cùng một lúc, phải rõ ràng, và nhớ rằng khi người ta đang đau đớn, họ chỉ đáp ứng tốt nhất những thông tin có liên quan đến các nhu cầu hoặc sự quan tâm sâu sắc của họ. Loại thông báo này là một phần chung chung, được chấp nhận một cách rộng rãi trong sự tư vấn; còn việc đưa ra lời khuyên thì có khả năng tranh luận nhiều hơn.
Những người đưa ra lời khuyên thường không có đủ kiến thức về tình huống có thể đem lại những lời khuyên thích đáng, việc họ đưa ra lời khuyên khích lệ người được tư vấn có tính độc lập, và trong trường hợp lời khuyên chứng tỏ là không có cơ sở – sau đó, người tư vấn cảm thấy có trách nhiệm trong việc đem lại một sự chỉ dẫn tồi. Bất kỳ khi nào bạn được hỏi để đưa ra lời khuyên hoặc thiên về việc đưa ra lời khuyên, hãy làm cho chắc chắn rằng bạn đã được thông báo kỹ càng về tình huống ấy. Có phải bạn đã có đủ thông tin và kinh nghiệm để khuyên lơn người khác một cách thành thạo chăng? Kế đến, bạn hãy hỏi chính mình về điều có thể là những kết quả cuối cùng của việc đưa ra lời khuyên. Cũng giống như việc giúp cho người được tư vấn có tính độc lập hơn? Bạn có thể giải quyết những cảm giác có thể đến với bạn, nếu như lời khuyên của bạn bị từ chối hoặc được chứng tỏ là sai không? Sau đó, nếu như bạn đưa ra lời khuyên, hãy đưa ra lời khuyên dưới hình thức một lời đề nghị thăm dò, rồi cho người được tư vấn có thời gian để phản ứng hoặc nhận định về lời khuyên của bạn, và theo dõi để thấy được tầm quan trọng của lời khuyên.
Sự diễn giải liên quan đến sự giải thích cho người được tư vấn điều mà họ hành xử hoặc những khả năng có thể xảy ra các biện pháp khác. Điều này là một kỹ năng chuyên môn có tiềm năng lớn lao đối với việc làm cho những người được tư vấn có thể nhận ra chính mình và thấy những tình huống của họ rõ ràng hơn. Thế nhưng những sự diễn giải cũng có thể gây tác hại, đặc biệt nếu như chúng được tỏ ra trước khi người được tư vấn có thể giải quyết vấn đề một cách đầy xúc động, hoặc nếu như sự diễn giải sai trật. Nếu như bạn bắt đầu nhận thấy những lời giải thích có tác dụng đối với các vấn đề hoặc những hành động của người khác, hãy tự hỏi chính mình nếu như người được tư vấn đã sẵn sàng cả về mặt kiến thức lẫn cảm xúc để giải quyết một vấn đề cách khôn ngoan, bạn cần giữ các thuật ngữ đơn giản khi diễn giải, giới thiệu những sự diễn giải của bạn theo như cách thử nghiệm (ví dụ, “Nó có thể là . . . ?”), và dành thời gian để người được tư vấn đáp ứng. Khi bạn thảo luận sự diễn giải, sự hiểu biết của người được tư vấn thường sẽ tinh nhanh hơn và họ có thể đoán trước được một vài điều về hành động của người tư vấn.
Sự ủng hộ và khuyến khích là các phần quan trọng trong bất kỳ tình huống tư vấn nào, đặc biệt là khi bắt đầu. Khi người ta có nhiều nhu cầu và nhiều mâu thuẫn, họ có thể nhận được sự ích lợi từ trạng thái ổn định và sự chăm sóc từ phía người có sự thông cảm thể hiện qua việc chấp nhận và đem lại sự tái bảo đảm. Đây là điều đang đi lên hơn là bị đè nén. Sự ủng hộ bao gồm việc hướng dẫn người được tư vấn tích lũy được năng lực thuộc linh và các biện pháp tâm lý, hành động khích lệ, và sự giúp đỡ cho bất kỳ các vấn đề nào hoặc cho những sự thất bại nào xảy đến cũng đều giống như là một kết quả của hành động đó.
4. Sự giáo huấn. Tất cả những kỹ thuật này là những hình thức đặc biệt của việc giáo dục tâm lý. Người tư vấn là một nhà giáo dục, giáo dục bằng sự dạy dỗ, làm gương, và bởi sự hướng dẫn, người được tư vấn học tập kinh nghiệm để đối diện với các vấn đề trong cuộc sống. Giống như một ít các hình thức giáo dục cá nhân khác, sự tư vấn sẽ có hiệu quả hơn nhiều khi các cuộc thảo luận cụ thể hơn là thực hiện cách mơ hồ, và xoáy vào trọng tâm trong những tình huống cụ thể (“Làm thế nào tôi có thể kiểm soát được tính tình của tôi khi bị vợ mình chỉ trích?”) sẽ hiệu quả hơn là dựa trên những mục tiêu không rõ ràng (“Tôi muốn cuộc sống của tôi được hạnh phúc hơn”).
Một dụng cụ học tập đầy uy lực chính là sự đáp ứng tức thì. Điều này liên quan đến khả năng của người tư vấn, và khi người được tư vấn thảo luận một cách cởi mở và thẳng thắng về điều đang xảy ra trong mối quan hệ “nhanh chóng” ở đây-và-bây giờ. Chẳng hạn như, có thể một người nào đó nói rằng “Tôi cảm thấy rất chán ngán bạn trong lúc này”, hoặc “Tôi sẽ giận vì tôi nghĩ bạn không lắng nghe tôi nói.” Thái độ chân thành như thế, những lời trình bày chi tiết như thế cho phép những cá nhân bày tỏ và giải quyết những cảm xúc trước khi chúng hình thành và làm ray rứt. Những đáp ứng tức thì cũng giúp cho những người được tư vấn (và những người tư vấn) hiểu rõ hơn về những hành động của mình ảnh hưởng đến những người khác thể nào và người khác đáp ứng ra sao đối với các mối quan hệ đầy cảm xúc trong từng cá nhân. Việc hiểu biết này là một lãnh vực giáo huấn quan trọng của sự tư vấn.
5. Sự đổ đầy. Những người tư vấn giỏi không phải là những người hoài nghi không tin mọi thứ mà người được tư vấn nói, thế nhưng thật là khôn ngoan để nhớ rằng không phải lúc nào những người được tư vấn cũng nói cho người tư vấn biết toàn bộ câu chuyện và về điều mà họ thật sự muốn hoặc cần đến. Thỉnh thoảng một người được tư vấn dè dặt trình bày thái quá một vấn đề, bỏ qua những chi tiết có chiều hướng buộc tội hoặc tiềm ẩn nguy cơ làm ai đó xấu hổ. Nhưng thường thì những người được tư vấn thất bại để nhận thấy các vấn đề của họ một cách bao quát. Đôi khi họ đến để được giúp đỡ cho một vấn đề thế nhưng họ lại thất bại để thấy hoặc miễn cưỡng để nói ra các vấn đề khác rộng hơn.
Vì thế, khi bạn thực hiện việc tư vấn, hãy cố gắng lược bỏ bớt khỏi tâm trí các từ ngữ của người được tư vấn. Và tìm hiểu xem : Người được tư vấn thật sự đang hỏi điều gì? Người này thật sự muốn gì từ nơi chúng ta? 25 Phải chăng còn có những vấn đề khác hơn những vấn đề đang được đề cập đến không? Thỉnh thoảng người ta đề cập về một vấn đề, thế nhưng thật sự họ lại có một chút khao khát muốn thay đổi. Thay vào đó họ trông chờ nhận được nơi người khác một cái nhìn thông cảm, chú ý, tinh thần phấn chấn, hoặc có được cách để thoát khỏi một tình huống không vui nào đó. Khi bạn lắng nghe, bạn bắt đầu nghi ngờ những động cơ ẩn ý này, và thường thì bạn nhận thức được chúng bằng trực giác của mình chớ không phải bởi người được tư vấn.
Sẽ có những lúc bạn muốn nói đến các vấn đề này và sẽ nói về chúng trong khi tư vấn. Người tư vấn không tìm cách để thăm dò những vấn đề mới hoặc cố ép những người được tư vấn phải xem xét những chủ đề mà họ không muốn thảo luận. Thế nhưng công việc của bạn sẽ có hiệu quả hơn nếu như bạn học cách lắng nghe với sự nhạy bén và cố gắng không chấp nhận những thứ có giá trị trước mắt.
Tất cả điều này một lần nữa cho thấy nhu cầu của người tư vấn là sự khôn ngoan và sáng suốt. Một số người đã từng trải điều này, nhưng nhiều Cơ Đốc Nhân biết rằng sự nhạy bén thường có được khi chúng ta cầu nguyện, cầu xin sự khôn ngoan, được hướng dẫn, và có nhận thức chính xác đến từ Đức Thánh Linh.
QUÁ TRÌNH HUẤN THỊ
Sự tư vấn không phải là một quá trình từng-bước-một như làm một cái bánh hoặc thay một lốp xe. Mỗi người được tư vấn phải thống nhất về các vấn đề, về thái độ, giá trị, sự mong đợi, và những kinh nghiệm với nhau không như bất kỳ ai khác. Người tư vấn (các vấn đề, thái độ, giá trị, sự mong đợi, và những kinh nghiệm riêng của người tư vấn cũng phải được đề cập đến trong tình huống tư vấn) giúp cho mỗi cá nhân một chút gì thành công khác. Khóa tư vấn sẽ khác nhau đối với từng mỗi người.
Tuy nhiên, trong mỗi mối quan hệ tư vấn, có một vài bước hoặc cụm từ xuất hiện, một ít trong số đó có thể được nhắc đi nhắc lại khi các vấn đề được xem xét và lại tiếp tục được xem xét nữa.
1. Sự Liên lạc. Điều này liên quan đến việc khởi xướng, gây dựng, và duy trì mối quan hệ giữa người tư vấn và người được tư vấn. Khi người được tư vấn bắt đầu bộc bạch, người tư vấn cần lắng nghe một cách chăm chú và thể hiện sự quan tâm, chăm sóc cách thành thật; thỉnh thoảng đề nghị được chia sẻ những cảm giác, những mối bận tâm, hoặc các vấn đề của họ.
2. Sự thăm dò. Những người được tư vấn cần “kể về những câu chuyện của họ” – tiết lộ nhiều chi tiết về các tình huống của vấn đề, những cơ hội bị bỏ nhỡ, và những kinh nghiệm buồn chán. 26 Đây là khoảng thời gian khi những người được tư vấn được khích lệ để chia sẻ những cảm giác, tâm sự về những suy nghĩ, và miêu tả lại những việc làm của họ. Người tư vấn lắng phải nghe một cách chăm chú, đặt các câu hỏi thăm dò định kỳ, và trả lời bằng thái độ tôn trọng, thông cảm, và nhạy bén. Việc thăm dò về các chủ đề như thế, giúp xây dựng được mối quan hệ khắng khít giữa người tư vấn và người được tư vấn và có một sự hiểu biết rõ hơn về tình huống của vấn đề.
3. Lập kế hoạch. Trong lúc người được tư vấn bắt đầu nhận thấy vấn đề qua một điểm gợi tỏ nào đó và sự thảo luận đang hướng đến các mục đích khác, có thể bỏ qua một số hành động để tìm ra các giải pháp. Người được tư vấn có thể thay đổi như thế nào? Phải chăng có thể hoàn tất một vài điều để các vấn đề khác được tốt hơn chăng? Có một vài điều cần phải được chấp nhận bởi vì chúng không thể thay đổi chăng? Có những tội lỗi nào cần được xưng ra, những hành động nào phải tránh, những thái độ nào cần thay đổi, những mục đích nào phải đạt được, những kỹ năng nào cần học hỏi? Người tư vấn và người được tư vấn phải cùng nhau phát họa một vài dự định trong việc thực thi hành động.
Một vài người tư vấn cố gắng bỏ qua điều này và hai giai đoạn trước, vì thế họ có thể trực tiếp đi thẳng vào quá trình đưa ra lời khuyên và thách thức người khác thực thi hành động. Thỉnh thoảng điều này là khả thi, nhưng thường thì không hiệu quả lắm, giống như một cuộc giải phẫu được hoàn tất bởi một nhà vật lý học bị-bịt-mắt, đã không để thời gian tiến hành chẩn đoán.
4. Tiến hành. Một dự định sẽ không thật sự hữu ích trừ khi nó được thực hiện bởi hành động cụ thể. Sau khi quyết định điều cần được hoàn tất, người ta phải được khuyến khích để bắt đầu hướng đến các mục đích của họ. Người tư vấn đưa ra sự ủng hộ, có lời chỉ dẫn, khuyến khích, và thỉnh thoảng nhẹ nhàng thúc đẩy. Đôi khi những người được tư vấn sẽ nhận lấy hành động và kinh nghiệm sự thất bại. Sau đó, người tư vấn sẽ giúp đỡ người được tư vấn đánh giá điều sai trật và cả hai cùng nhau lập kế hoạch để cố gắng hơn nữa.
5. Sự dừng lại. Sự tư vấn không thể kéo dài mãi. Trong lúc cả người tư vấn lẫn người được tư vấn bỏ qua mối quan hệ giải quyết-vấn đề cách dứt khoát và mạnh mẽ hơn. Thường thì có một sự tóm lược về điều đã được học hoặc dẫn đến thành công. Có thể có sự thảo luận về những cách thức mà người được tư vấn có thể đối diện một cách hiệu quả hơn trong tương lai. Và cánh cửa được mở ra ở bên trái đối với những sự liên lạc tư vấn trong tương lai nếu như chúng từng được cần đến. 27
Trên lý thuyết tất cả điều này có vẻ như cụ thể và đơn giản, thế nhưng quá trình tư vấn có thể rất phức tạp và đòi hỏi nhiều thời gian và sức lực. Những giai đoạn tư vấn hiếm khi được nhận dạng một cách cụ thể rõ ràng hoặc dễ dàng như các đoạn trước đó có thể đã ám chỉ đến. Chẳng hạn, bước đầu tiên liên lạc với những người được tư vấn và xây dựng một mối quan hệ quan trọng một cách đặc biệt lúc đầu khi người ta có thể lo lắng và bứt rứt. Tuy nhiên, một lần nữa khi một mối quan hệ bắt đầu được hình thành, nó phải được duy trì. Đối với nguyên nhân này, người tư vấn chẳng bao giờ mất đi tầm nhìn của bước một. Khi các quá trình tư vấn có sự giao động liên tục giữa những giai đoạn này, và khi các vấn đề trở nên rõ ràng hơn, thì sẽ tìm thấy được những giải pháp và được cố gắng, và sự tư vấn hướng đến sự kết thúc.
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ SỰ HUẤN THỊ
Hệ thống phân tâm học nổi tiếng của Sigmund Freud là lý thuyết của một người đàn ông về sự tư vấn. Nó tóm lược cái nhìn của Freud về bản tính con người, những nguyên nhân cho các vấn đề cá nhân, và những phương pháp tốt nhất đối với việc thay đổi sự giúp đỡ người khác. Cũng như các học giả khác, Freud đã tìm kiếm để xây dựng lý thuyết của mình trên nhiều sự kiện, bằng những thông tin khách quan, dựa vào ngành khoa học về lý luận (logic), và bằng kiến thức riêng của ông về con người. Tuy nhiên, không như những học giả khác, Freud dường như đã không hiểu được mỗi lý thuyết cũng là một sự phản ánh về cá tính, về những lợi ích, những sự thiên vị, về các giá trị, niềm tin, những mục đích, những kinh nghiệm trong quá khứ, văn hóa, sự huấn luyện của người sáng tạo nên nó, và có lẽ ngay cả đất nước mà người ta sống.
Không có khả năng để đem lại một sự đánh giá chính xác về số lượng những lý thuyết về sự tư vấn còn tồn tại hiện nay. Lý thuyết Adlerian, Jungian phân tích, liệu pháp chữa bệnh còn tồn tại, liệu pháp chữa bệnh con người-trung tâm của Rogers, liệu pháp chữa bệnh Gestalt, sự phân tích sự giao dịch (TA), liệu pháp chữa bệnh thực tiễn của Glasser, liệu pháp chữa bệnh mang động cơ-lý trí (RET) của Albert Ellis, những liệu pháp chữa bệnh về cách cư xử khác nhau, liệu pháp chữa bệnh học tập-xã hội, và liệu pháp chữa bệnh các hệ thống gia đình ở giữa nhiều liệu pháp chữa bệnh nổi tiếng. Mặc khác, một số các Cơ Đốc Nhân đã đề nghị phải đặt nền tảng tư vấn trên Kinh Thánh. Điều nầy bao gồm sự tư vấn nouthetic của Jay Adams, sự tư vấn về Thánh Kinh của Lawrence Crabb, spirituotherapy của Charles Solomon, và sự tư vấn trưởng thành của Howard Clinebell.
Một vài lý thuyết tư vấn được phát triển cao hơn và được giới thiệu trong ngôn ngữ trịnh trọng; những lý thuyết khác thì tư biện và ít trịnh trọng hơn. Một vài nhà lý thuyết học nhấn mạnh đến những cảm giác, trong khi những người khác thì dừng lại trong sự thay đổi cách cư xử căng thẳng hoặc sự suy nghĩ của người được tư vấn. Một vài người khẳng định rằng những người được tư vấn phải có trách nhiệm căn bản đối với sự giúp đỡ cho chính họ; những người khác thì nhấn mạnh hơn đến vai trò của người tư vấn. Nhiều sự đồng thuận của Cơ Đốc Nhân được xây dựng trên quan điểm của các nhà lý thuyết học về sự dạy dỗ của Thánh Kinh; những điểm nhấn mạnh của các lý thuyết khác được thay thế nhiều hơn dựa trên những sự tìm kiếm về quan điểm và lý thuyết học về tâm lý học. Một vài lý thuyết rất phức tạp và khó để tóm lược; những lý thuyết khác thì ngắn gọn và đơn giản hơn nhiều. Mặc dù một sự tóm lược về các vị trí khác nhau này còn xa với cơ hội để hoàn thành cuốn sách này, nhưng nó cung cấp một cái nhìn tổng quát tốt và sự phân tích có tính phê bình, sẵn sàng đối với những người muốn có được những thông tin khác. 28
Tại sao lại làm phiền Lý thuyết học? Một vài người đã thảo luận rằng những lý thuyết chỉ là một điểm quan trọng nhỏ mà thôi, chúng tồn tại chỉ để giúp đỡ hay khích lệ cái tôi của những người xây dựng các lý thuyết ấy, và chúng không có nhiều ảnh hưởng trên kinh nghiệm thực tế về việc tư vấn. Trong một vài ngữ cảnh, những thảo luận này là thật, thế nhưng các lý thuyết cũng có thể phục vụ cho một mục đích hữu ích nào đó.
Các lý thuyết giống như những hệ thống lý thuyết học. Chúng tóm lược điều mà chúng ta biết và tin, điều mà chúng ta đang tìm kiếm để hoàn tất, và làm thế nào để chúng ta đạt đến sự thành công cho các mục đích. Khi khuôn mẫu của cuốn sách này có thể được chỉ ra, có một số lớn thông tin về những sự phức tạp trong cách cư xử của con người, những nguyên nhân dẫn đến các vấn đề của con người, và những cách mà những người tư vấn có thể giúp đỡ. Những lý thuyết này giúp chúng ta hệ thống tất cả những sự kiện này với nhau thành một kiểu cấu trúc hợp nhất, để có thể hiểu và hữu ích. Những gì đạt được mang tính lý thuyết sẽ hướng dẫn chúng ta trong khi tìm cách để giúp đỡ người khác đối diện với các vấn đề của họ.
Lý thuyết nào là đúng? Câu trả lời là “không”, không có lý thuyết nào là đúng cả. Những lý thuyết là những phát hiện của con người, được sáng tạo bởi con người có thể phạm sai lầm, và dường như được chỉnh chữa lại khi kiến thức và sự hiểu biết của chúng ta phát triển hơn. Nhiều giáo sư có những lý thuyết yêu thích của họ (và những nhà lý thuyết học), nhưng hầu như một nửa trong số họ đều có chung cách trả lời như một sự tóm lược mới đây được chính họ xác nhận, là “người suy nghĩ hoặc làm việc theo cách chiết trung”. 29 Từ này miêu tả về những người thích hướng đến nhiều quan niệm và nhiều kỹ thuật, từ nhiều cách để đạt được mục đích thay vì bị giới hạn về một lý thuyết.
Chủ nghĩa chiết trung không phải là một sự thu thập không có chủ đích, lười biếng nhận biết về các ý tưởng. Thay vì thế, đây là một chủ ý hướng đến các nguồn khác nhau trong một tính cách sâu sắc và có thể giúp bạn - trong một dịp nào đó - bạn sẽ đạt đến mức kiểu mẫu trong việc tư vấn riêng của mình.
Không có một cách nào có thể làm điều này, trừ khi không có cách nào đúng để tư vấn. Chúa Jêsus đã từng dùng nhiều sự đạt đích khác nhau, tùy thuộc vào những nhu cầu của người được tư vấn. Những người tư vấn Cơ Đốc, ngay cả đối với những người siêng năng tìm hiểu Kinh Thánh nhất, sử dụng nhiều sự đạt đích khác nhau và thỉnh thoảng cũng không đồng ý với những quan điểm liên quan đến lý thuyết từ một môn học của những người bạn đồng nghiệp Cơ Đốc của họ. Thật có ích để hiểu về các lý thuyết khác nhau, nhưng cuối cùng mỗi người chúng ta phải nhờ cậy Đức Thánh Linh làm việc qua những cá tính và sự nhìn nhận vấn đề của cá nhân chúng ta để giúp chúng ta có thể giúp đỡ những người khác một cách có hiệu quả nhất.
LUẬT PHÁP VÀ SỰ HUẤN THỊ
Cách đây vài năm, một Mục sư của một Hội Thánh Tin Lành lớn ở California đã bị gia đình của một người đàn ông trẻ kiện vì những hoạt động bất chính, là người đã hứa sẽ tự sát khi anh làm theo sự tư vấn của Mục sư. Sự tố tụng được giải quyết với sự hài lòng của Mục sư, nhưng trường hợp này đã thu hút sự chú ý của người dân, qua đó đã chỉ ra tính chất thường xuyên của sự tư vấn và luật pháp tương tác với nhau.
Trong nhiều năm, các nhà tâm thần học và tâm lý học đã tham dự tiến trình hợp pháp hóa bằng cách đưa ra lời chứng cùng với sự giúp đỡ của các chuyên gia trong các phiên tòa pháp luật, các tòa án đã quyết định nếu một bị cáo thành thạo về tâm lý để chịu đựng được sự thử thách, với sự tham dự các cam kết để lắng nghe, với sự đưa ra những bài kiểm tra về tâm thần học và tâm lý học, và với sự tư vấn cho các tù nhân và gia đình của họ. Từ năm 1843, khi một người đàn ông Xcốt-len tên là Daniel M’Naghten bị tố cáo trong vụ giết người nhưng tìm không ra lỗi do bị mất trí, những giáo sư tư vấn được dùng để giúp đỡ các phiên tòa quyết định liệu các bị cáo có nhận thức được sự khác nhau giữa điều đúng và điều sai không, khi họ can dự đến những hành động phạm pháp. Gần đây hơn, sự tương tác giữa tâm thần học và luật pháp đã được gia tăng với lời nhận định có thể gây ra tranh luận sau “vì nguyên nhân bị mất trí,” John W. Hinckley, Jr. không có tội cố gắng để ám sát Tổng thống Reagan. 30
Hơn cả điều đó, một sự quan tâm tức thì đối với người tư vấn Cơ Đốc đã không dừng lại ở luật giới hạn về địa điểm và thời gian được bán đồ uống có cồn, và gia tăng tính thường xuyên của các vụ tố tụng về các hoạt động bất chính, như những người đã kiện ông Mục sư ở California. Luật pháp tại vùng bạn sống có thể quyết định ai là người thành thạo để tư vấn hợp pháp, những chủ đề mà người tư vấn có thể sử dụng, những người tư vấn nào được miễn tiết lộ các chi tiết về việc tư vấn trong phiên tòa pháp luật, các quyền tự do công dân của những người được tư vấn, những điều kiện đối với những cá nhân nào thì có thể được đưa vào bệnh viện để chữa trị các vấn đề về trí tuệ, những đòi hỏi giáo dục đối với những giáo sư tư vấn, là những người có thể nhận tiền thù lao một cách hợp pháp sau các dịch vụ tư vấn, điều được xác lập khi tư vấn đối với những hành động bất chính, và những điều kiện mà một người tư vấn có thể bị kiện về sự cẩu thả khi tư vấn.
Luật pháp bao gồm các điều này và những vấn đề tư vấn khác cũng thay đổi từ nơi này đến nơi khác, cũng như sự thường xuyên thay đổi các đạo luật. Nếu bạn tư vấn một cách không thường xuyên, thiếu cẩn trọng, hoặc giới hạn trong một nhà thờ hay trong một viện giáo dục nào đó, bạn có thể được miễn xét nhiều luật lệ mà những giáo sư tư vấn khác phải đối diện. Tuy nhiên, nếu bạn tư vấn một cách thường xuyên, sẽ là khôn ngoan nếu kiểm tra chúng với một luật sư hầu xác định các luật lệ địa phương có ảnh hưởng thế nào và cần giới hạn ra sao về sự tư vấn của bạn. 31
Sự thảo luận về các vấn đề hợp pháp này là một sự nhắc nhở qua đó cho thấy không có sự tư vấn nào được thực hiện xa rời mọi người. Những người tư vấn và những người được tư vấn sống như những thành viên của một xã hội và trong một cộng đồng. Thỉnh thoảng cộng đồng tạo ra các vấn đề và những giới hạn đối với hiệu quả tư vấn, nhưng các vấn đề phải đối diện cũng là một thực tế. Cộng đồng (bao gồm cả cộng đồng Cơ Đốc) có thể làm cho công việc của bạn dễ dàng như là một người tư vấn hữu hiệu. Vai trò của những ảnh hưởng cộng đồng sẽ đáp ứng sự chú ý của chúng ta trong chương kế tiếp.
Christian Couseling – Gary R]. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Benjamin, Alfred D. The Helping Interview with Case Illustrations. Boston: Houghton-Mifflin,1987.
Brammer, L. M. The Helping Relationship. 2d ed. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Crabb, Lawrence J., Jr. Understanding People: Deep Longings for Relationship. Grand Rapids, Mich.: Zondervan,1987.
Collins, Gary R. How to Be a People-Helper. Ventura, Calif.: Regal,1976.
Egan, Gerard. The Skilled Helper. 3d ed. Monterey, Calif.: Brooks/Cole,1986.
Welter, Paul. Connecting with a Friend: Eighteen Proven Counseling Skills to Help You Help Others. Wheaton, Ill.: Tyndale,1985.
-------. How to Help a Friend. Wheaton, Ill.: Tyndale,1978.
Worthington, Everett L., Jr. When Someone Asks for Help: A Practical Guide for Counseling. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1982.