ĂN NĂN VÀ THA THỨ
Có lẽ hai việc gay go nhất mà chúng ta phải làm trong đời sống, đã được tóm tắt trong hai từ ngữ được dùng làm tiền đề cho chương này: “Ăn năn” và “Tha thứ”. Ăn năn gồm một số sự việc. Để bắt đầu, nó có nghĩa là một thứ lệ thuộc mà phần đông chúng ta từ chối, vì những lý do mà chúng ta sẽ xét đến ít lâu sau đây. Nó cũng có nghĩa là chúng ta ngầm nhận trách nhiệm trong việc thừa nhận rằng mình là những tội nhân đã gây nhiều rắc rối cho chính cuộc đời mình, và gạy rắc rối cho tha nhân nữa. Nhân loại và đặt đời sống chúng ta hướng nào, một hướng đi mới. Tai hại thay, nếu bạn có chút gì đó giống tôi thì chúng ta chẳng có thể tự mình làm việc gì cả, vì tôi vốn chẳng có năng lực của ý chí lẫn sức mạnh, cả khi tôi muốn làm như thế. Tôi cần một Cứu Chúa để tôi nhờ cậy vào sức lực của Ngài, cho nên hễ tôi quay lại với Ngài, tức là tôi cũng quay lại với Thượng Đế. Tôi cũng cần một Cứu Chúa để tiếp tục nâng đỡ tôi khi mọi sự trở thành khó khăn. Cho nên tôi cần Đức Thánh Linh là năng lực nâng đỡ không bị lệ thuộc vào thời gian và không gian, là Đấng giữ cho tôi nhìn chăm vào Chúa Giê-xu - hay cố gắng làm như thế.
Nếu chúng ta muốn suy nghĩ về điều đó bằng bức tranh trong Thánh Kinh mà chúng ta đã thấy, thì chúng ta cũng giống như người ăn mày mù Ba-ti-mê đang đứng trần truồng và bất lực trước mặt Chúa Giê-xu để chờ đợi. Ăn năn đòi hỏi phải thừa nhận chính sự bất năng bất lực sẵn sàng chịu lệ thuộc của chúng ta, và chấp nhận rằng chúng ta vốn là những tên ăn mày mù loà, trần trụi, đang cần thấy đường. Chừng đó, chúng ta mới có thể được phục hồi thị giác, để sau đó, sẽ theo Ngài trên Đường (trong Đạo). Ăn năn là một từng trải đau đớn, vì nó cảm thấy nhục nhã, nhưng đó là bước đầu tiên hướng tới sự lành mạnh mà Chúa Giê-xu hứa với chúng ta.
Ăn năn mới chỉ là một phần của vấn đề. Phần còn lại là tha thứ. Ăn năn là tiến trình hay thái độ để được đưa đến với lòng nhân từ thương xót của Thương Đế, và nhờ chịu lệ thuộc vào Ngài, mà nhận được sự tha thứ của Ngài. Cho nên, một khi đã ăn năn và được tha thứ rồi, chúng ta cũng phải thực hành việc tha thứ trong các mối liên hệ của chúng ta với tha nhân. Như chúng ta sẽ thấy, có một đoạn sách đầy ý nghĩa trong lời truyền dạy của Chúa Giê-xu, gồm cả một đoạn trong bài cầu nguyện của Chúa chúng ta (bài Cầu Nguyện Chung), xem việc tha thứ của chúng ta là tối quan trọng trong mối liên hệ giữa chúng ta với Thượng Đế và đồng bào đồng loại mình.
Tất cả những điều đó giả định trước thực tại của tội lỗi. Tôi là tích cực tự đặt mình tại tâm điểm của đời sống, mà hậu quả là đặt Thượng Đế vào một chỗ khác, không phải là tại trung tâm điểm. Nó là một tình trạng giống như thuốc độc trong cơ thể; chỉ khi nào những cơn đau bắt đầu xuất hiện, chúng ta mới biết là có thể đã bị đầu độc. Nếu chúng ta để cho những cơn đau ám ảnh mình, là chúng ta chưa thật sự trực diện với vấn đề đích thực. Nếu chúng ta chỉ chữa trị những cơn đau mà thôi, thì thuốc độc vẫn còn trong cơ thể. Rất có thể một trong những chỗ đau trở thành mãnh liệt và sưng nhức, đến độ chúng ta chỉ có thể cảm thấy chỗ duy nhất đó mà thôi. Nếu trường hợp quả đúng như thế, thì lẽ dĩ nhiên chúng ta phải chữa trị nó và hi vọng sẽ loại hẳn được nó đi. Nhưng việc ấy, nếu có thể đem đến cho ta cảm giác dễ chịu, vẫn chưa giải quyết được vấn đề, vì nó không phải là vấn đề. Thuốc độc vẫn còn tích cực luân chuyển khắp cơ thể. Rõ ràng điều cần thiết là phải chữa trị phần căn nguyên chứ không phải là các triệu chứng, để đưa sự lành mạnh đến cho cả cơ thể, chứ không phải chỉ cho một phần cơ thể mà thôi.
Người làm công tác tư vấn sẽ được thấy nhiều lần các dấu hiệu của tội lỗi và bệnh tật trong đời sống con người, nhưng vì người ấy cần phải xem những điều đó là nghiêm trọng, người ấy sẽ rất dại dột nếu tưởng rằng đó chính là các vấn đề đích thực. Người ấy cần giúp đỡ người kia đưa toàn thể căn bệnh của mình đặt dưới làn ánh sáng chữa bệnh của Chúa Cứu Thế. Cho nên, theo quan điểm tư vấn, thì tội lỗi ảnh hưởng trên mọi phương diện của đời sống, và phải tự nhắc nhở mình về tất cả những gì mà tội lỗi có thể làm nữa.
Che giấu.
Bản thân chúng ta rất khó chấp nhận tội lỗi, cho nên hoặc là chúng ta tìm cách che giấu nó với hi vọng là người khác sẽ không thấy được, hoặc là chúng ta cố gắng đổ trút nó để người khác phải nhận lời chê trách. Tiến trình nói dối hay nói thêm, là một phần của việc che giấu, và điều còn tệ hại hơn nữa, là nỗ lực cố ý đổ trút sự chê trách lên một người nào đó vốn hoàn toàn vô tội. Lắm khi sự việc không đến nỗi thô bỉ như thế. Vấn đề là cách chúng ta nhấn mạnh khi kể lại một câu chuyện. Bất cứ ai từng liên hệ với công tác tư vấn về hôn nhân đều biết rằng thật ra chẳng hề có một phía nào là “vô tội” cả. (Suốt hai mươi năm lăm năm, tôi chỉ gặp một vụ ly dị trong đó tôi tin rằng có một phía là thật sự chẳng có gì đáng chê trách). Thế nhưng nếu ta lắng nghe từng người vợ (hoặc chồng) kể chuyện, ta có thể nghĩ rằng mỗi người đều tự thấy là mình vô tội và bị xúc phạm tuy phải nhận rằng cả hai đàng thỉnh thoảng đều có những lỗi nhỏ. Nếu ta thử gói những “lỗi nhỏ” ấy lại, ta sẽ thường khám phá ra rằng đó là cả lon sâu bọ!
Cho nên tội lỗi thường bị che giấu, và bao lâu còn có việc ấy, thì sẽ chẳng bao giờ có ăn năn; thật vậy, dường như nhiều người tin rằng nếu nó không bị phát giác thì chẳng hề có tội lỗi nào hiện hữu cả. Gặp trường hợp như thế thì tội là việc để cho nó bị phát giác! Cũng như với Ba-ti-mê, chỉ khi nào chúng ta chịu vứt bỏ số quần áo rách bươm mà chúng ta vẫn cột chặt quanh mình và sẵn sàng nhìn thấy mình thật sự là thế nào, thì sự ăn năn và tha thứ mới trở thành hiện thực.
Dốt nát.
Một trong những tiếng kêu to nhất của những người từng khiến mọi sự trở thành rối rắm là “Tôi không biết”, “Tôi không ngờ”, “Tôi không hiểu”. Sự việc có thể là như thế, nhưng điều đó không có nghĩa là do đó mà nó bị xem là ít tội lỗi hơn. Dốt nát là một trong những kẻ chủ mưu gieo rắc tội lỗi. Người ta chẳng cần gì phải cố ý mới phạm tội. Có lẽ nếu một một người không biết việc mình làm hay không biết thực trạng của mình, thì ít đáng bị chê trách hơn, nhưng điều đó công khiến được cho các hậu quả trở thành dễ chịu hơn hay ít tội lỗi hơn. Tôi là trọng tài khúc côn cầu và một trong những điều mà người chơi phải học biết và chấp nhận, ấy là một va chạm là một va chạm, cho dù nó có cố ý hay không. Nếu là cố ý, những cách trừng phạt sẽ càng nghiêm khắc hơn - đó là điểm khác nhau duy nhất. Trong thực tế, phần lớn những lần va chạm đều không cố ý, nhưng điều đó không có nghĩa rằng chúng gây ít vấn đề hơn cho đối phương.
Cho nên dốt nát tạo ra rất nhiều vấn đề. Tôi từng gặp một cô gái mang thai nhưng thật thà tin rằng mình không thể mang thai nếu không đạt đến cao điểm. Cô ta vui vẻ ngủ với các bạn trai và cẩn thận tránh đạt đến cao điểm để tránh mang thai. Sự kiện đã mang thai là một “cú sốc” khủng khiếp cho cô ta! Đó là tội lỗi, ngây thơ và dốt nát - nhưng cô ta đã hành động trong hoàn cảnh như thế.
Các bác sĩ hành nghề ở thôn quê và giỏi người kém phát triển bảo rằng những vấn đề tệ hại nhất liên quan đến sức khoẻ đều do dốt nát gây ra. Người ta uống nước bị ô nhiễm là vì nó có hương vị hơn, người ta sở dĩ nuôi con cái họ bằng những thức ăn độc địa vì tưởng rằng chúng là những thức ăn tốt. Bảng liệt kê có thể kéo dài vô tận, và dốt nát là một kẻ thù bất khả khuất phục. Sự việc cũng đúng là như thế trong nông nghiệp và các lãnh vực căn bản khác của đời sống con người. Những bệnh tật, chứng suy dinh dưỡng của đời sống con người. Những bệnh tật, chứng suy dinh dưỡng và hậu quả làm suy nhược đời sống là một biểu hiện của tội lỗi, cả khi nguyên nhân của nó là dốt nát.
Tội của người khác
Trong nhiều lãnh vực, có những người vô tội trở thành nạn nhân do tội lỗi của người khác. Có một điều tôi biết được nhờ làm công tác tư vấn, là trẻ con vốn dễ trở thành nạn nhân như thế nào. Bà mẹ găp chuyện bất như ý đánh lẫy con cái; trẻ con được sinh ra do tội ích kỷ và bị bỏ mặc để tự lo liệu lấy; trẻ con là nạn nhân của những vụ ghen tuông, giận dữ, sợ hãi và đủ mọi tình cảm phá hoại của con người. Có lần một người nọ đến với tôi, có vẻ rất bất an. Điều đã trở nên rõ ràng là vào một giai đoạn nào đó của cuộc đời anh ta, gia đình anh ta sắp dọn nhà đi, và anh ta có một món đồ chơi cũ vốn là biểu tượng của sự an ninh trong hoàn cảnh anh ta rất yêu ông (nội) mình, nhưng lại bị miệng lưỡi độc địa và chua chát của cha anh ta nhát, khiến anh ta sợ. Đến ngày dọn nhà, anh ta hỡi ông nội mình chẳng hay anh ta có thể giữ món đồ chơi ấy không và ông cụ bảo là có. Nhưng cha anh ta giật lấy món đồ chơi ấy khỏi đứa con đang gào khóc của mình và nói: “Chúng ta chẳng cần lấy bất kỳ món đồ đáng vứt đi nào như món này”. Gần bốn mươi năm sau, cái kinh nghiệm khủng khiếp đã bị thời gian che phủ ấy lại một lần nữa đổ chất độc vào trong cơ thể anh ta và anh ta vẫn chưa chịu làm lành với cha mình. Chúng ta vốn thường là nạn nhân do tội lỗi của người khác, bất chấp việc ấy có xảy đến cho chúng ta như thế nào. Những vết thương của những từng trải như thế tồn tại suốt đời, nếu chúng không được phơi bày ra trước hiện diện có quyền năng chữa lành của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Tội cố ý.
Là những người cố vấn, chúng ta phải thận trọng để đừng tránh né tội phạm cố ý - vì như thế sẽ là một việc làm dại dột. Trong một vai giới người vẫn có khuynh hướng nhắm mắt làm ngơ đối với tội lỗi dù dưới hình thức nào, hay càng tệ hại hơn nữa là tìm cách giải thích cho qua chuyện. Theo thiển ý thì dường như giá trị của Jay Adams là ở chỗ ông nhấn mạnh trên thực tại của tội lỗi. Vấn đề của tôi đối với ông dường như là ông muốn thấy tội lỗi đúng ra là hơi hạn hẹp, và tôi dám chắc rằng đó không phải là bức tranh đúng theo Thánh Kinh.
Tuy nhiên, tội lỗi chính là năng lực tiềm ẩn trong thân phận con người, và chúng ta sẽ là những ngời dại dột nếu không tin rằng nhân loại đã bị đưa vào tình trạng vô cùng khủng khiếp là do cố ý sẵn sàng phạm tội dù là loại tội phạm lạnh lùng hay sôi động hơn. Tôi không đang nghĩ đến các tội năng rõ ràng như sát nhân, mà đúng hơn là tội cố ý bóc lột người khác đến cạn kiệt, khai thác, là cách biến thiên hạ thành nạn nhân của lòng ghen tị hay sợ hãi. Trong tất cả những trường hợp như thế, người cố vấn cần phải biện biệt điều gì là tội và giúp người ấy ăn năn để nhận được sự tha thứ, như chúng ta sẽ thấy.
Lời truyền dạy của Chúa Giê-xu về sự ăn năn và tha thứ.
Ăn năn.
Nếu chúng ta coi trọng mẫu mực của các sách Phúc âm thì lời truyền dạy của Chúa Giê-xu bắt đầu bằng việc theo dõi Giăng Báp-tít. Thí dụ như Mác và Lưu-ca từng thuật rằng Giăng (Báp-tít) “khuyên dạy mọi người phải chịu lễ báp-tem, ăn năn tội lỗi để được tha tội”. Cho nên chẳng có gì lạ là sau khi Giăng bị cầm tù, Chúa Giê-xu đã xuất hiện để tiếp tục công tác của Giăng, tuy là theo một chiều kích mới. Ngài đến để truyền giảng “Nước Trời đã gần! Phải ăn năn tội lỗi và tin nhận Phúc âm”. Như thế, tại tâm điểm của Phúc âm mà Chúa Giê-xu truyền giảng, là sự cần thiết phải ăn năn, một sự thay đổi tấm lòng, một hướng đi mới. Đó là việc thừa nhận một bộ giá trị mới và lòng mong ước với thái độ sẵn sàng theo đó mà sống. Cho nên, Nước Trời sẽ không thể đến được nếu người muốn vào đó chưa chịu thay đổi thái độ. Nhưng bất ngờ thay điều này lại gây hiểu lầm là một thứ thái độ khiến người ta có phần nào tin rằng vào Nước Trời là việc được ban cho một thứ quyền tự động đối với bất cứ ai có một quốc tịch nào đó, là thành viên của một hệ phái hay thậm chí là của chính Hội thánh hay có thiện cảm với Hội thánh.
Điều chắc chắn là sự ăn năn là cần thiết cho bất luận một mối liên hệ đích thực nào với Thượng Đế và với đồng bào đồng loại. Trong Cựu ước, nguyên mẫu là ông Gióp, tuy được xem là công chính so với bất kỳ định chuẩn tôn giáo nào, vẫn chỉ có thể bưòc vào một mối liên hệ phải lẽ với Thượng Đế sau khi ông đã vượt trên tôn giáo để t trực diện với bản thân. Tại điểm này, ông đã ăn năn tội, thì mọi việc khác đều đâu vào đấy cả. Cho nên cũng như thế, Phúc âm nêu rõ rằng chỉ khi nào chúng ta nhìn thấy Chúa Giê-xu như chính Ngài vốn là như thế, và đáp lại Ngài với cương vị Chúa tể, thì chúng ta mới đang đứng tại vị trí để ăn năn, và để sau đó, sẽ theo Ngài.
UY QUYỀN và SỰ THA THỨ
|
|
Sách Tư Vấn Cơ Đốc