Quan điểm về con người và tội lỗi mà Chúa Giê-xu được thừa kế vốn phức tạp đáng kinh ngạc nhưng cũng đầy tính cách hướng dẫn và đơn giản thật lý thú. Nó bắt đầu bằng một khải tượng về sự trọn vẹn của tính sáng tạo bùng nổ nhưng có chủ đích của Thượng Đế, mà tuyệt đỉnh là con người, kẻ phải sử dụng uy quyền, đồng thời vẫn phải phục tùng uy quyền ấy.
Thánh Kinh không bận tâm phản ảnh vấn đề: “Con người là gì?” Câu hỏi này là bất thích hợp. Con người là một tạo vật được dựng nên theo hình tượng của Thượng Đế. Từ ngữ “hình tượng” trong Hi-văn hàm ý dấu vết để lại trên sáp của chiếc ấm hay chiếc nhẫn có công dụng của một chữ ký. Nó có thẩm quyền và có giá trị dứt khoát, phản ảnh sự hiện diện của người đóng dấu ấn ấy. Chính tính cách thọ tạo của con người là điều luôn luôn được nhấn mạnh. Con người là đại diện của Thượng Đế nhưng không phải là Thượng Đế. Bảo rằng con người “tự nhiên mà có” là yếu tính, là bản chất của tội lỗi. Trong công trình sáng tạo trọn vẹn, toàn thiện toàn hảo của Thượng Đế, thì con người lệ thuộc Thượng Đế và phần còn lại của công trình sáng tạo phải ở dưới quyền con người, là cách mà Thượng Đế muốn phải như thế. Cho nên con người phải vâng lời và phải chịu ở dưới quyền, là một luận đề lớn và quan trọng trong hai chương đầu tiên của Sáng thế ký.
Trong Sa 1:27 chúng ta có động từ “bara” - “sáng tạo” được nhắc đi nhắc lại ba lần. Cùngmột từ ngữ ấy cũng đã được dùng trong câu 1 để chỉ toàn thể tiến trình sáng tạo; bây giờ nó lại được dùng lại chỉ trong một câu để nhấn mạnh rằng chúng ta đã đạt tới chính tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo tức là con người. Conngười phản ảnh của thuộc tính của Thượng Đế; con người được chúc phước và có quyền khi sống dưới quyền và thực thi uy quyền của Thượng Đế.
Không hề có cái nhìn thông tuệ cao siêu nào hơn về con người, có lẽ ngoại trừ việc nó được mở rộng và phát triển thêm trong Sa 2. Đến cuối chương 1, chúng ta thấy con người trong tình trạng toàn thiện toàn hảo trọn vẹn của nó, chứng minh sự hiện diện của Thượng Đế trong đời sống mình bằng sự vâng lời, trong tình dục, trong tài năng của mình để thực thi uy quyền của Thượng Đế trong công trình sáng tạo. Chúng ta thấy con người đồng nhất hoá với Thượng Đế và công trình sáng tạo - lẽ dĩ nhiên là con người thật rực rỡ quang vinh. Bức tranh đã được mở rộng thêm trong Sa 2:4b-24. Điều nhấn mạnh ở đây cũng y như thế, tuy cách nói có phần khác hơn. Từ con người đến trật tự. Ở đây, người nam (adam) được tạo dựng từ bụi đất (adamah), được nhào nặn và tạo hình, khi Thượng Đế với tư cách Đáng Tạo Hoá tạo ra hình dạng con người theo hình tượng và vóc dáng mà Ngài muốn. Thượng Đế hà sinh khí (ruah) rao trong con người và con người được sống, lệ thuộc vào một Thượng Đế đã tạo dựng con người như thế để con người cai trị trên toàn thể cây cỏ trong vườn Ê-đen! Cùng một ý nghĩa về cai trị đó cũng được phản ảnh trong Chương 1. Con người được ban cho uy quyền trên các loài thảo mộc, ngoại trừ cây sự sống. Uy quyền ấy còn được mở rộng thêm. Con người trở thành “người đặt tên cho các loài thú”. Trong bức Thượng Đế tạo dựng nhiều loài thú khác nhau, thì con người đặt tên cho chúng, và các tên ấy cứ tồn tại. Trong Cựu ước biết tên và gọi tên hàm ý người đặt tên và gôi tên hàm ý người đặt tên có quyền và có thế lực trên người (vật) được đặt tên. Ở đây con người được ban cho uy quyền chọn tên, và như thế là “có quyền cai trị” trên các bài thú. Động cơ thúc đẩy công trình sáng tạo đặc biệt nhằm mục đích cộng tồn. Con người không thể sống biệt lập, mà là trong cộng đồng hôn nhân và gia đình.
Do đó, quà tặng người nữ là tuyệt đỉnhc ủa Sa 2. Ở đây, người nam (iAh) vui vẻ và nồng nhiệt tiếp đón người nữ (iAhShah). Chẳng có e thẹn mà chỉ có việc chấp nhận tình dục như một phần của công trình sáng tạo của Thượng Đế và công nhận sự loã lồ không dẫn tới e thẹn. Chỉ sau khi loài người sa ngã, sự loã lồ mới trở thành một điều cần phải che đậy và sợ hãi.
Do đó, con người là một tạo vật có trách nhiệm, có uy quyền và tập trung vào nếp sống cộng đồng, phải sống vâng lời Thượng Đế và vui vẻ tham gia công tác sáng tạo. Trong Sa 2, có một câu ngắn có ý “áp đặt": “Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào ("bắt” người đặt vào) cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn. Cho nên sống với Thượng Đế không phải là sốngvĩnh hẳng trong sự lười biếng và hưởngthụ khoái lạc nhục cảm triền miên; không có gái nhảy, những cái liếc mắt đưa tình, nhậu nhẹt, những ngày vô tận chẳng làm gì cả và ở dưng; nó phải được sống để tôn vinh Thượng Đế và vui vẻ vâng lời Ngài.
Tội. Nếu cảnh tượng về sự toàn thiện toàn mỹ mô tả trong hai Chương 1 và 2 của Sáng thế ký cho chúng ta một bức tranh về một Thượng Đế yêu thương, muốn có hợp nhất và hài hoà trong công trình sáng tạo, thì mấu chốt của vấn đề thân phận con người hiện nay là lời nói dối của con rắn với người nữ trong Chương 3: Ảo tưởng của con người là “Hai ngươi chẳng chết đâu”, và cho dù có cố công gắng sức đến đâu, con người vẫn không thể thoát chết. Thật vậy, con người cứ ngày càng tiến gần hơn đến cái chết và thả hại thay, nó cứ vui vẻ và dửng dưng tiến tới mà chẳng chịu suy nghĩ gì cả khi con người từ bỏ Thượng Đế và tìm cách làm mọi việc tuỳ ý mình.
Tôi đang ý thức rõ ràng về các ảo tưởng ấy. Trong khi ngồi viết mấy giòng chữ này, tôi ý thức được rằng hoả ngục của sự kỳ thị chủng tộc đang vây quanh tôi, rằng người ta đang đánh giặc với nhau trên khắp thế giới, rằng đêm này trên thế giới này phần đông thiên hạ đang đói, rằng những người có tiền trong xứ này đang lo âu bối rối vì sợ rằng những người không có sẽ trộm cướp tiền bạc của họ, rằng sát nhân, tham lam, hãm hiếp, bạo động sau sưa và đủ thứ tội ác còn lại sẽ bùng nổ ngay trong đêm nay. Tôi biết rằng những kẻ có quyền thế đang cố sức bám chặt vào đó, còn những người không có lại đang bàn mưu tính kế với nhau hoặc ước mơ sẽ bằng cách này hay cách khác, cướp lấy nó. Tôi biết rằng hôm nay, các loại vũ khí đang được chất đống thật to đến mức cứ theo cách loài người mà nói thì chẳng còn có cách nào ngăn trở được việc chúng ta sẽ tiêu diệt lẫn nhau. Tôi biết rằng trong đêm nay người ta vẫn ngoại tình, vẫn làm chuyện dâm ô viện lẽ rằng đó là cách ăn ở cư xử của người đã trưởng thành, nhiều cuộc hôn nhân đang đổ vỡ, nhiều người đang tự tử, các người vợ bị trao đổi, trẻ con bị đánh đập, các tù nhân bị tra tấn và vô số người nam người nữ sẽ chết vì tuyệt vọng, cô đơn, sợ hãi và bị cô lập; thế nhưng phần đông người ta thì chẳng bận tâm chi cả. Tôi biết rằng đêm nay địa cầu đang tiến thêm một bước gần hơn để sẽ bị chết ngạt vì những kẻ tham lam, biển lận quá mức, đang tận lực khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của nó và làm ô nhiễm những gì chúng ta có nhân danh những số lợi tức dự trữ cao hơn hay nhân danh huyền thoại “tiến bộ”. Chỉ vì một lời hứa định mệnh: “Hai ngươi chẳng chết đâu”, mà cái thế giới từng được Thượng Đế rất đỗi yêu thương lại đang vui vẻ và vội vã bước lên chiếc thuyền có tiếng là sống nhưng sự thật là đang chết.
Tấn thảm kịch của loài người ấy là họ từ bỏ điều kỳ diệu là hợp nhất với Thượng Đế để thật sự tin rằng dù sao thì mình cũng có thể “tự lo liệu lấy”, rằng mình là ông chủ của vận mệnh mình, rằng mình ra đi của chẳng có Thượng Đế thì hơn rằng mình có thể tự khai thác lấy công trình thọ tạo để thu lấy lợi riêng và để thoả mãn sự tham lam của nmình và rằng trong tiến trình ấy, mình “sẽ chẳng chết đâu”. Bức tranh của Thánh Kinh vốn chẳng có gì hàm hồ cả. Nó nói đại khái như thế này: “Nếu ngươi bảo rằng ngươi sẽ chẳng chết đâu thì ngươi sẽ phải nhận lấy hậu quả, và các hậu quả ấy sẽ dẫn ngươi tới tình trạng sống mà chết mà người tin là mình có thể tránh được”.
Như trong hai chương đầu của Sáng thế ký, vấn đề không phải: “Tội lỗi là gì?” - mà đó là một bức tranh rõ ràng - “nếu ngươi muốn biết chuyện gì đã xảy ra cho thế gian này, hãy nhìn vào đây thì ngươi sẽ thấy”. Tội lỗi không phải là điều để chúng ta cãi nhau và nhìn vào để tỏ ra kinh ngạc, mà đó là điều phải thừa hận y như nó hiện có, không thắc mắc, cũng không thể bỏ qua. Đó không phải là một bất hoà nho nhỏ, mà là một đổ vỡ quan trọng, một biến cố gây chấn thương ảnh hưởng đến mọi phương diện của đời sống và làm hư hỏng mọi việc mà loài người chạm tay vào. Sa 3 và 4: 1-16 cho thấy một sự thăng tiến trong việc chối bỏ Thượng Đế đưa đến cái chết trong khi đang sống mà chúng ta vừa đề cập.
Nó bắt đầu bằng một diễn trình hết sức đơn giảm là nghi ngờ lời phán của Thượng Đế. Cần chú ý ở đây, con rắn không phải là Sa-tan hoặc thậm chí là một loài thọ tạo xuất quỉ nhập thần. Nó chẳng có gì tài giỏi hơn một con thú hoang trong số những con thú hoang khác, chỉ “quỉ quyệt hơn” mà thôi, như Thánh Kinh chép”. Điều này có nghĩa là nó có thể suy nghĩ chính chắn hơn thậm chí quỉ quyệt hơn, nhưng nó không phải là Sa-tan. Tại điểm này, tội lỗi chẳng cần gì đến Sa-tan, mà nó cần sự phản loạn của con người. Và con người muốn phản loạn, nó chỉ muốn tìm cách bào chữa vì đã làm như thế mà thôi.
Sự phản loạn không tự nhiên xảy ra; tội lỗi vốn rất hấp dẫn. Nó ban năng lực và tinh thần độc lập cho những lý do hay nhất có thể có được. Cho nên tiến trình hợp lý hoá là bước tiếp theo cho tiến trình thắc mắc lo âu. Những lời tự bào chữa chủ yếu đều khéo léo và rất có hiệu quả. Chúng bao hàm nhu cầu phải ăn, nhu cầu thưởng thức vẽ đẹp, và nhu cầu về khôn ngoan. Tất cả những điều đó khi ở vào đúng vị trí, đều cần thiết, nhưng một khi có lạm dụng, chúng càng gây tàn hại nhiều hơn mù chẳng sản sinh ra được gì cả. Khi được xem như một lời bào chữa, thì mỗi một điểm trong chương đều có cứu cánh riêng. Với tội lỗi, cứu cánh không phải là sự sống mà ta trông mong, nhưng là sự chết.
Cho nên người nữ đã hái trái cấm, ăn vào trao cho chồng và chồng cùng ăn nữa. Chẳng hề có sấm nổ, chẳng hề có chớp nhoáng kinh hoàng, cũng chẳng có động đất, gió mạnh, hay tiếng phán từ trời xuống gì cả. Họ chỉ bỗng nhiên ý thức rằng mình loã lồ và cảm thấy xấu hổ. Cùng với sự thẹn thuồng xấu hổ, là nhu cầu muốn tự che giấu. Rồi vì cảm thấy xấu hổ, họ sợ,hãi cho nên tìm cách ẩn trốn. Trong khi cảm thấy loã lồ và sợ hãi, họ bị Thượng Đế gọi đến để gặp Ngài mặt đối mặt để từ đó chuyển sang bước kế tiếp - đổ lỗi cho người khác. Người nam trách người nữ, nhưng ẩn ý là trách Thượng Đế: “Người nữ mà Chúa đã để gần bên tôi cho tôi trái cây đó”. Người nữ thì trách con rắn, và tất cả đều phải nhận lấy sự phán xét của Thượng Đế. Bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen, họ trực diện với những khó khăn gian khổ của một công trình sáng tạo giờ đây không còn năng suất cao nữa.
Tuy nhiên câu chuyện vẫn chưa xong. Khi lòng ghen tị và tội sát nhân tìm đường để len lỏi được vào trong lịch sử, thì Ca-in và A-bên đã leo thang phạm tội. Tội sát nhân mở đường cho một cố gắng muốn che giấu càng phức tạp hơn, rồi đến lượt nó, việc này lại dẫn đến câu nói dửng dưng khủng khiếp: “Tôi là người giữ em tôi sao?” Điều tệ hại hơn rồi cũng đến, vì giờ đây Ca-in chỉ còn biết tin nơi chính mình, nên chẳng còn có thể tin vào con người hay Thượng Đế nữa, và thậm chí khi Thượng Đế đã ban cho ông ta một dấu hiệu để được bảo vệ, ông ta không còn có thể sống thoải mái được nữa.
Cho nên có lẽ đó là chỗ để chúng ta có thể từ giã mọi việc. Con người vốn được sáng tạo trong một khải tượng của sự vui vẻ vâng lời, đã bị sự xấu hổ, sợ hãi, giận dữ, dửng dưng và sự thiếu tin cậy chẳng vui vẻ gì đập tan.
Chúa Giê-xu là Cứu Chúa chúng ta; Ngài đã từng trải mọi điều đó và đem đến cho chúng ta một nếp sống mới. Xin chúng ta cầu nguyện, để với cương vị cố vấn, bản thân chúng ta ý thức được thật đầy đủ quyền năng và sự hiện diện của Chúa Giê-xu trong đời sống mình, để chúng ta có thể hướng dẫn nhiều người khác vượt qua được sự sợ hãi và xấu hổ để có được một đời sống mới biết vâng lời Ngài.